Người nối đôi bờ Sê Pôn
(QT) - Đôi chân ông Hồ Ray (trú tại bản Ra Man, xã Xy, huyện Hướng Hóa, Quảng Trị) giờ không còn nhanh nhẹn như xưa. Thế nhưng, nó vẫn bền bỉ trên hành trình kết nối nghĩa tình hai bên biên giới. Đối với vị già làng đáng kính này, việc gì có lợi cho người dân bản Ra Man và bản Ổi (xã Pa Lọ, huyện Mường Nòng, tỉnh Savannakhet, Lào) thì ông làm.Sắm thuyền nối bờ vui Hai giờ sáng, ông Hồ Ray vẫn trằn trọc nghĩ đến chuyện dân bản thiếu nước sinh hoạt. Giấc ngủ vừa đượm, người đàn ông 75 tuổi loáng ...

Người nối đôi bờ Sê Pôn

(QT) - Đôi chân ông Hồ Ray (trú tại bản Ra Man, xã Xy, huyện Hướng Hóa, Quảng Trị) giờ không còn nhanh nhẹn như xưa. Thế nhưng, nó vẫn bền bỉ trên hành trình kết nối nghĩa tình hai bên biên giới. Đối với vị già làng đáng kính này, việc gì có lợi cho người dân bản Ra Man và bản Ổi (xã Pa Lọ, huyện Mường Nòng, tỉnh Savannakhet, Lào) thì ông làm. Sắm thuyền nối bờ vui Hai giờ sáng, ông Hồ Ray vẫn trằn trọc nghĩ đến chuyện dân bản thiếu nước sinh hoạt. Giấc ngủ vừa đượm, người đàn ông 75 tuổi loáng thoáng nghe tiếng hú vọng lại từ phía sông Sê Pôn. Ngay lập tức, ông bật dậy, cầm chiếc đèn pin, gọi mọi người và vội vã chạy về bờ sông. Như một thói quen, mỗi khi dân bản Ổi gặp bất trắc và cần sự giúp đỡ, bà con lại gọi ông Ray bằng tiếng hú dài. Đêm ấy, ông Hồ Ray và thanh niên hai bản lặn lội vượt sông, đưa một sản phụ đến trạm y tế. Sáng ra, mặt mày ai cũng phờ phạc nhưng đôi môi lại nở nụ cười. Con của Pỉ Sa Lý sinh ra rất khỏe mạnh, kháu khỉnh. Nắm tay ông Hồ Ray, y sĩ Cù Giặc Hiền vui vẻ thông báo: “Lại có thêm một đứa trẻ được sinh ra từ tình nghĩa Việt- Lào”.

Ông Hồ Ray và vợ chăm chỉ lao động, sản xuất để có điều kiện giúp đỡ nhiều người hơn
Nhiều năm qua, dòng sông Sê Pôn đã trở thành chứng nhân cho “mối tình” giữa bản Ra Man và bản Ổi. Đây là một trong những cặp bản tiêu biểu trong phong trào kết nghĩa bản- bản hai bên biên giới. Ở mảnh đất ghép đôi này, bà con xem nhau như anh em. Bà con bản Ra Man và bản Ổi khẳng định, chuyện về lòng tốt của ông Ray có thể kể từ tuần trăng này sang tuần trăng khác. Ngay những tấm huân, huy chương, giấy khen, bằng khen treo kín vách tường nhà ông cũng chưa ghi hết công lao to lớn của vị già làng này. Đại ngàn miền Tây nuôi ông Hồ Ray khôn lớn, thôi thúc ông lên đường tham gia kháng chiến bảo vệ quê hương. Sau ngày hòa bình, trên mảnh đất chi chít hố bom, ông Ray và bà con gom nhặt từng mảnh đạn bom, “làm sạch” đất để dựng lại làng. Ông Ray vốn cương trực, nói được, làm được nên mọi người rất tin tưởng và bầu giữ nhiều chức vụ, đặc biệt là Chủ tịch UBND xã Xy. Đến tuổi nghỉ hưu, vợ con khuyên ông gác mọi công việc xã hội để an hưởng tuổi già. Nghe thế, ông Hồ Ray phân tích: “Bà con còn khổ lắm, tôi làm sao nghỉ ngơi được”. Thế rồi, ông bắt đầu chú tâm làm kinh tế. Dưới bàn tay của ông, đồi hoang trở thành rừng bời lời, đất trống hóa rẫy sắn, trâu bò lớn nhanh như thổi... Nhờ thế, ông có điều kiện để giúp đỡ nhiều người hơn. Hễ bà con cần gì, ông cũng cố hỗ trợ bằng được, từ giống cây trồng, vật nuôi đến công lao động, cho vay vốn không lấy lãi, thăm nom khi đau ốm… Trong tháng ngày hành thiện, ông Hồ Ray rất trăn trở khi thấy bà con bản mình và bản Ổi chưa thực sự mở lòng với nhau. Xuất phát từ suy nghĩ “Đèn nhà ai nhà nấy rạng”, họ thường ngại giúp đỡ, nhường cơm, sẻ áo với dân bản bạn. Không thể đứng nhìn, ông Ray quyết tâm làm người kết nối. Thành thông lệ, tháng nào, ông cũng vượt sông Sê Pôn sang thăm hỏi, tặng quà cho các hộ nghèo ở bản bạn. Trong mỗi chuyến đi như thế, ông đều kể chuyện về những năm tháng hai dân tộc kề vai, sát cánh chống kẻ thù chung. Đặc biệt, ông Hồ Ray còn mạnh dạn bán trâu bò, lấy tiền mua thuyền để chở bà con hai bản sang thăm thân, giúp đỡ nhau. Cũng từ đó, ngày ngày, trên chiếc thuyền nhỏ, ông miệt mài chở mọi người vượt sông. Vị già làng đáng kính thuộc từng luồng lạch sông Sê Pôn cũng như hiểu tâm tư, tình cảm của mỗi người dân hai bản. Ông làm việc không công, chẳng để ai móc túi trả đồng nào. Cũng nhờ sự tận tụy của ông Ray mà người dân hai bản gặp gỡ, trò chuyện với nhau nhiều hơn. Không dừng lại ở đó, bà con còn trao đổi nông lâm sản, hỗ trợ giống cây trồng, công làm rẫy... Đặc biệt, mỗi khi dân bản đối diện gặp nạn, bà con bản bên kia biên giới đều sang thăm. Vừa rồi, một số hộ dân ở bản Ổi bị cháy nhà, bà con bản Ra Man đã sang tặng gạo và các nhu yếu phẩm cần thiết. Về phần mình, bà con bản Ổi cũng đã tạo điều kiện cho người dân bên kia biên giới khai thác gỗ, tre nứa... để dựng nhà. Nghĩa thông gia, tình hữu nghị Ông Hồ Ray giữ rất nhiều tặng phẩm của người dân nước bạn. Ông nói, dân bản Ra Man và bản Ổi đều khái tính, yêu ghét rõ ràng. Khi nể trọng ai đó, bà con sẵn sàng tặng cả đồ gia bảo. Duy chỉ một điều họ e ngại là chuyện kết hôn xuyên biên giới. Ai cũng lo con mình khổ khi phải đi ly hương, không hiểu tường tận phong tục tập quán nước bạn. Vả lại, thủ tục đăng ký kết hôn giữa các đôi nam nữ Việt - Lào còn khá phức tạp. Xuất phát từ những lý do đó, nhiều đôi nam nữ buộc phải chia tay dẫu yêu nhau ròng rã mấy năm trời. Bản thân có 6 đứa con đang ở tuổi ăn, tuổi lớn, ông Hồ Ray cũng lấy làm quan ngại trước thực tế đó. “Yêu nhau mấy núi cũng trèo. Mấy sông cũng lội mấy đèo cũng qua. Làm sao có thể để những chuyện ấy ngăn cản tình cảm bọn trẻ” - Nghĩ thế, ông Ray luôn dặn lòng không cấm cản các con. Chuyện già làng Ra Man tiên liệu sớm xảy ra khi người con trai thứ hai của ông đem lòng yêu một cô gái bản bạn. Sau khi hay tin, không do dự, vợ chồng ông Ray sang bản Ổi đặt vấn đề hôn sự và hứa sẽ xem dâu như con cháu trong nhà. Về phần lễ lạt và thủ tục pháp lý, ông khẳng định sẽ lo liệu chu toàn. Đám cưới của anh Hồ Chia và chị Hồ Thị Luôn diễn ra, đánh dấu bước ngoặt mới trong nhận thức về hôn nhân của người dân hai bản. Từ đó, các ông bố, bà mẹ bắt đầu học tập già làng để se duyên cho con. Nam nữ yêu và đến với nhau dễ dàng hơn. Mọi khoảng cách về địa lý, phong tục, tập quán, thủ tục pháp lý... dần được xóa bỏ. Về sau, cô con gái thứ tư của ông Ray là chị Hồ Thị Rấy cũng trở thành nàng dâu ở nước bạn Lào. Điều làm ông Hồ Ray vui nhất là các con của mình sống rất hạnh phúc và sinh ra những đứa cháu kháu khỉnh, khỏe mạnh. Rào cản cuối được dỡ bỏ, tình nghĩa bản Ra Man và bản Ổi thêm phần khăng khít. Năm 2009, dưới sự chứng kiến của chính quyền địa phương và bộ đội biên phòng, hai bản tổ chức lễ kết nghĩa bản - bản hai bên biên giới. Trong cái ngày nhiều niềm vui ấy, những bậc cao niên ở bản Ra Man và bản Ổi đều vui vẻ khẳng định rằng, thực ra, họ đã kết thân với nhau từ lâu rồi, chỉ là chưa đặt bút ký tá thôi. Nói về nghĩa tình hai bản, Thượng tá Nguyễn Đình Hoài, Chính trị viên Đồn Biên phòng Tam Thanh chia sẻ: “Thường thì mỗi lần tổ chức lễ kết nghĩa bản - bản hai bên biên giới, chúng tôi phải qua lại rất nhiều lần để tuyên truyền, vận động bà con. Song ở cặp bản Ra Man - Ổi này thì khác, dường như bà con đã ký kết ngầm với nhau từ lâu rồi. Công đầu của thành quả này thuộc về những người có uy tín như ông Hồ Ray”. Đến bản Ra Man và bản Ổi hôm nay, có thể cảm nhận rõ niềm vui trên gương mặt, dáng đi của người dân nơi đây. Mặc cái nóng oi ả của những ngày đầu hè, bà con vẫn chăm chỉ lao động, sản xuất để làm giàu cho gia đình mình và giúp đỡ dân bản mình, bản bạn nhiều hơn. Giờ đây, ông Hồ Ray không còn là người duy nhất sắm thuyền, tình nguyện chở mọi người sang sông nữa, nhưng ông vẫn luôn là người già làng đáng kính của cư dân hai bản. Bài, ảnh: QUANG HIỆP