Đẩy mạnh phong trào hành động cách mạng, thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ đã đề ra
*Phát biểu của đồng chí Nguyễn Viết Nên, Bí thư Tỉnh ủy kết luận Hội nghị lần thứ mười bốn Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Trị (Khóa XIV)

Đẩy mạnh phong trào hành động cách mạng, thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ đã đề ra

*Phát biểu của đồng chí Nguyễn Viết Nên, Bí thư Tỉnh ủy kết luận Hội nghị lần thứ mười bốn Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Trị (Khóa XIV)

Kính thưa các đồng chí đại biểu! Kính thưa các đồng chí! Sau hơn 2 ngày làm việc khẩn trương, nghiêm túc, Hội nghị BCH Đảng bộ tỉnh Quảng Trị lần thứ 14 đã hoàn thành chương trình đề ra. Qua hội nghị đã có trên 70 lượt ý kiến thảo luận tại tổ và 10 ý kiến thảo luận và giải trình tại hội trường, với tinh thần trách nhiệm cao, các đồng chí đã đóng góp nhiều ý kiến sâu sắc. Đa số ý kiến đồng tình cao với các nội dung đã được trình bày trong các dự thảo chương trình hành động thực hiện Nghị quyết TƯ 7 (khóa X) về "Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa"; "Xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa"; "Vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn"; Kết luận tình hình kinh tế- xã hội năm 2008, phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế -xã hội năm 2009. Ban Thường vụ Tỉnh ủy xin tiếp thu những ý kiến hợp lý để bổ sung hoàn chỉnh các dự thảo chương trình hành động trước khi ban hành. Tuy nhiên vẫn còn một số vấn đề cần phải được khẳng định, phân tích, làm rõ thêm để có cơ sở cho cấp ủy biểu quyết thông qua. Trước hết là về quan điểm chỉ đạo phát triển của mỗi chương trình hành động, Thường vụ Tỉnh ủy cho rằng nhất thiết phải lấy quan điểm trong các Nghị quyết của TƯ 7 để làm căn cứ chủ yếu. Vì Trung ương đã chỉ rõ các quan điểm cụ thể cho quá trình phát triển từ nay đến năm 2020, còn việc cụ thể hóa các quan điểm đó trong quá trình chỉ đạo thực hiện thì sẽ được thể hiện trong các nghị quyết chuyên đề hoặc trong các nghị quyết phát triển kinh tế- xã hội hàng năm của tỉnh. Về chương trình hành động "Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên thời kỳ CNH, HĐH": Trước hết cần phải khẳng định thanh niên Quảng Trị có số lượng lớn chiếm trên 45% lực lượng lao động xã hội của tỉnh, là lực lượng nòng cốt đi đầu trong các phong trào cách mạng của địa phương, là nhân tố quan trọng quyết định tương lai phát triển của quê hương. Thanh niên Quảng Trị có lòng yêu nước, tinh thần chiến đấu quả cảm, tài trí, thông minh và sáng tạo, sẵn sàng xả thân vì Tổ quốc. Trong hai cuộc kháng chiến giành độc lập tự do của dân tộc, dưới sự lãnh đạo của Đảng, các thế hệ thanh niên đã hăng hái đi đầu trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập tự do của dân tộc. Nêu cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng, chiến đấu kiên cường, anh dũng, đóng góp máu xương, công lao to lớn vào sự nghiệp giải phóng dân tộc. Bước sang thời kỳ mới, các thế hệ thanh niên Quảng Trị tiếp tục nỗ lực vươn lên rèn đức, luyện tài, khẳng định được bản lĩnh cách mạng, ý chí và nghị lực trước yêu cầu nhiệm vụ mới. Tuy nhiên, tình hình thanh niên trong tỉnh hiện nay đang còn bộc lộ những khuyết điểm, yếu kém đáng quan tâm, đó là: Trong điều kiện kinh tế thị trường, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, một bộ phận thanh niên Quảng Trị còn gặp nhiều khó khăn trong học tập, mưu sinh, lập thân, lập nghiệp. Trình độ học vấn, tay nghề, chuyên môn, kỹ năng, thích ứng với cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế còn thấp. Một bộ phận không nhỏ thanh niên còn mang nặng tư tưởng tiểu nông, sống cam chịu, chưa dám nghĩ, dám làm vươn lên lập thân lập nghiệp, sống thiếu lý tưởng, thực dụng... Trong khi đó, một số cấp ủy Đảng, chính quyền chưa làm tốt trách nhiệm lãnh đạo công tác thanh niên, chưa nhận thức đúng công tác xây dựng Đoàn là một bộ phận không tách rời của công tác xây dựng Đảng. Công tác quản lý nhà nước về thanh niên và công tác thanh niên còn hạn chế, chưa xác định là một nhiệm vụ quan trọng trong kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội, quốc phòng- an ninh ở các cấp. Việc đầu tư chỉ đạo, quy hoạch, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng thanh niên và cán bộ trẻ chưa được chú trọng đúng mức . Hoạt động của tổ chức Đoàn- Hội LHTN các cấp, chưa theo kịp yêu cầu nhiệm vụ về đoàn kết, tập hợp, giáo dục thanh niên. Nhiều gia đình ít quan tâm giáo dục và tạo điều kiện cho sự phát triển và trưởng thành của thanh, thiếu niên. Từ thực tiễn tình hình đó, đặt ra mục tiêu, nhiệm vụ của toàn Đảng bộ trong thời gian tới là: Phải xác định rõ quan điểm việc chăm lo, phát triển thanh niên vừa là mục tiêu, vừa là động lực bảo đảm cho sự ổn định và phát triển bền vững của tỉnh, từ đó để có chủ trương, chính sách phù hợp nhằm phát huy cao độ lực lượng thanh niên, đặt thanh niên ở vị trí trung tâm của chiến lược bồi dưỡng, phát huy nhân tố và nguồn lực con người Quảng Trị, vừa để đáp ứng nguồn cán bộ trẻ để kế tiếp sự nghiệp cách mạng một cách vững vàng. Về mục tiêu cụ thể: Qua giải trình của một số đồng chí trong hội nghị, đề nghị cấp ủy giữ mục tiêu như trong dự thảo: Đảm bảo có ít nhất 70% cán bộ Đoàn chuyên trách trong độ tuổi thanh niên. Kết nạp ít nhất 45% đoàn viên trên tổng số thanh niên; nâng tỷ lệ kết nạp đảng viên từ đoàn viện đạt 70% trở lên trong tổng số đảng viên mới kết nạp hàng năm, tập hợp 80% thanh niên vào sinh hoạt trong tổ chức đoàn, hội. Đào tạo, chuẩn hóa 150 cán bộ Đoàn chủ chốt để bố trí cho Đoàn cơ sở; đào tạo 100 tài năng trẻ cho tỉnh trên các lĩnh vực; bố trí cán bộ trẻ chủ chốt trong hệ thống chính trị các cấp... Để thực hiện được các mục tiêu đó, cần lưu ý một số giải pháp trọng tâm: - Phải đẩy mạnh việc củng cố, tổ chức, nâng cao chất lượng hoạt động của tổ chức Đoàn và Hội liên hiệp thanh niên, nhất là ở cấp xã, phường, thị trấn. Coi trọng việc phát triển tổ chức Đoàn, Hội trong các tổ chức kinh tế ngoài quốc doanh. Phấn đấu ở đâu có thanh niên thì phải có tổ chức Hội và tiến tới có tổ chức Đoàn. - Phải xây dựng môi trường xã hội lành mạnh để thanh niên rèn luyện, phấn đấu, trưởng thành. - Phải xác định rõ trách nhiệm về chăm lo cho các thế hệ thanh niên, trước hết là của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng, của tổ chức Đoàn, của gia đình, nhà trường và toàn xã hội. Tăng cường hơn nữa trách nhiệm của Nhà nước đối với công tác thanh niên. Thành lập tổ chức hội đồng công tác thanh niên cấp tỉnh giúp UBND tỉnh theo dõi, chỉ đạo thực hiện có hiệu quả công tác thanh niên. - Giao cho Đoàn TNCS HCM phối hợp với Ban Tổ chức Tỉnh ủy khẩn trương xây dựng đề án đào tạo chuẩn hóa 150 cán bộ chủ chốt, đề án đào tạo 100 tài năng trẻ cho tỉnh; đề án bố trí cán bộ chủ chốt trong hệ thống chính trị các cấp. Trong các đề án đó, cần đề cập cụ thể về nguồn cán bộ (bao gồm nguồn cán bộ cơ sở hiện có và số sinh viên tốt nghiệp ra trường); nội dung và phương thức đào tạo, phương án bố trí, nguồn lực đầu tư và kinh phí thực hiện đề án. - Giao cho UBND tỉnh chỉ đạo xây dựng đề án: huy động các nguồn lực để đầu tư xây dựng hình thành các thiết chế văn hóa ở cấp xã, phường, thôn bản, khu phố để tạo điều kiện cho nhân dân và thanh thiếu niên sinh hoạt văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao. Về chương trình hành động" Xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước" - Cùng với sự phát triển đi lên của tỉnh, đội ngũ trí thức Quảng Trị đã có sự tăng nhanh về số lượng, nâng cao chất lượng, có bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức cách mạng, có tinh thần trách nhiệm, cống hiến sức lực, trí tuệ để tham gia xây dựng quê hương và đã có những đóng góp quan trọng vào quá trình phát triển kinh tế- xã hội của tỉnh. Tuy nhiên, trước yêu cầu của sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước và hội nhập quốc tế, trước đòi hỏi của sự phát triển kinh tế- xã hội của tỉnh, đã cho thấy rõ đội ngũ cán bộ nói chung và trí thức Quảng Trị nói riêng còn bộc lộ những hạn chế và yếu kém, đó là: Tỷ lệ trí thức Quảng Trị trên số dân còn thấp, chiếm 2,6% dân số và 18,9% tổng số lao động trong các cơ sở kinh tế và hành chính sự nghiệp. Đang có sự hẫng hụt đội ngũ trí thức có trình độ cao và còn bất hợp lý về cơ cấu, về trình độ và năng lực. Đội ngũ trí thức làm công tác lãnh đạo, quản lý có tăng lên, nhưng vẫn chưa đáp ứng yêu cầu trẻ hóa trong giai đoạn mới, độ tuổi của đội ngũ này tập trung từ 45 đến dưới 60 tuổi, chiếm đến trên 59%. Năng lực đội ngũ trí thức chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới của tỉnh, nhiều lĩnh vực thiếu cán bộ đầu đàn, đặc biệt thiếu những trí thức có năng lực tổ chức thực hiện những chương trình, dự án có tính chất đột phá phục vụ các mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội của tỉnh. Môi trường công tác của đội ngũ trí thức tuy có được cải thiện, nhưng còn nhiều bất cập, nên việc tạo điều kiện cho trí thức nâng cao nghề nghiệp, "sống vì nghề" còn hạn chế. Điều kiện kinh tế còn khó khăn, môi trường làm việc hạn chế, nên trí thức chưa tập trung tốt cho hoạt động khoa học, dẫn đến lãng phí chất xám. Một số trí thức trẻ có tâm trạng thiếu phấn khởi, thiếu ý chí phấn đấu vươn lên và ở nhiều mức độ khác nhau còn chịu ảnh hưởng các mặt trái của cơ chế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế. Những năm qua tỉnh Quảng Trị cũng đã ban hành nhiều chính sách về đào tạo, bồi dưỡng, thu hút và sử dụng cán bộ, nhưng kết quả đạt được còn rất hạn chế. Bên cạnh đó công tác đầu tư cho đào tạo gắn với sử dụng đội ngũ trí thức có trình độ cao ở nhiều độ tuổi khác nhau còn rất ít. Một số cấp ủy Đảng, chính quyền chưa coi trọng đánh giá, sử dụng trí thức phù hợp với năng lực, trình độ và khả năng cống hiến. Việc tập hợp và sử dụng đội ngũ trí thức để tư vấn, phản biện các chính sách, đề án thiếu coi trọng. Vai trò của một số hội khoa học, kỹ thuật, hội nghề nghiệp còn hạn chế, hiệu quả hoạt động chưa cao. - Để tập trung xây dựng đội ngũ trí thức của Quảng Trị đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cho trước mắt và lâu dài, cần xác định rõ quan điểm coi trí thức là lực lượng lao động sáng tạo đặc biệt quan trọng trong tiến trình xây dựng, phát triển quê hương, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, trong xây dựng nền kinh tế tri thức. Đầu tư xây dựng, phát triển đội ngũ trí thức là đầu tư cho phát triển bền vững. Do đó, nhiệm vụ xây dựng đội ngũ trí thức là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, trong đó trách nhiệm của cấp ủy Đảng, chính quyền giữ vai trò quyết định; đồng thời đó cũng là vinh dự là trách nhiệm và bổn phận của trí thức Quảng Trị trước Đảng bộ và nhân dân. Phải thực hành dân chủ, tôn trọng và phát huy tự do tư tưởng trong hoạt động nghiên cứu, sáng tạo của trí thức, tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho hoạt động nghề nghiệp của trí thức. Trọng dụng trí thức trên cơ sở đánh giá đúng phẩm chất, năng lực và kết quả cống hiến, gắn với chính sách ưu đãi đặc biệt đối với những người thực sự có tài, có đức đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng quê hương. Trong năm 2009, xúc tiến xây dựng và triển khai thực hiện chiến lược phát triển trí thức Quảng Trị đến năm 2020. Từ nay đến năm 2020 phải xây dựng đội ngũ trí thức phát triển nhanh về số lượng, chuyển biến mạnh mẽ về chất lượng, có cơ cấu hợp lý ở tất cả các cấp, các ngành, các lĩnh vực. Tập trung xây dựng đội ngũ trí thức giỏi ở các lĩnh vực then chốt, quan trọng. Có kế hoạch ưu tiên đầu tư đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ chuyên ngành cho các lĩnh vực. Thường vụ Tỉnh ủy sẽ tiếp thu để điều chỉnh lại mục tiêu "đến năm 2020 mỗi Sở, ban ngành, đoàn thể cấp tỉnh phải có trên 25% cán bộ có trình độ thạc sĩ và tiến sĩ; các cơ quan Nhà nước cấp huyện có trên 90% số cán bộ, công chức có trình độ đại học và trên 15% cán bộ có trình độ trên đại học" cho phù hợp với thực tế và có tính khả thi cao theo hướng phân biệt rõ giữa cơ quan lãnh đạo, quản lý và cơ quan chuyên môn và lấy mục tiêu Nghị quyết của Tỉnh ủy về đào tạo nguồn nhân lực làm cơ sở có tính đến năm 2020. - Nhiệm vụ, giải pháp cơ bản nhất hiện nay là phải xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng đội ngũ trí thức của tỉnh hiện có, xem đây là một bộ phận cấu thành quan trọng nhất của kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội. Mặt khác cần có chính sách để phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng và thu hút nhân tài cho tỉnh. Phải huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn đầu tư cho phát triển giáo dục, đào tạo, đồng thời coi trọng việc đẩy mạnh xã hội hóa công tác đào tạo (cá nhân, gia đình, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế), xem đây là một chính sách có tính chiến lược. Thực hiện đa dạng hóa các loại hình đào tạo, nâng cao chất lượng đào tạo để có đội ngũ trí thức đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa... nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của tỉnh. Trong điều kiện kinh tế của Quảng Trị còn nhiều khó khăn thì việc vận dụng các chính sách của Trung ương để đảm bảo cho trí thức được hưởng đầy đủ lợi ích vật chất và tinh thần tương xứng với giá trị kết quả lao động sáng tạo của mình là vấn đề hết sức quan trọng. Mặt khác ngoài khoản kinh phí đã định mức cho đào tạo, bồi dưỡng như đã làm từ trước đến nay, hàng năm tỉnh cần bổ sung tăng thêm một khoản kinh phí đào tạo, bồi dưỡng, thực hiện chính sách thu hút, đãi ngộ cán bộ từ nguồn ngân sách của tỉnh (chẳng hạn như trích từ 3-5% trong nguồn tiết kiệm chi thường xuyên). Chương trình hành động về nông nghiệp, nông dân, nông thôn: - Đa số ý kiến đồng tình với mốc thời gian và gam lượng đánh giá trong dự thảo: Sau gần 20 năm lập lại tỉnh, nhất là từ năm 2000 đến nay, mặc dù phải thường xuyên chịu tác động của các điều kiện bất lợi, giá cả vật tư tăng cao... nhưng dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo kịp thời của cấp ủy Đảng và chính quyền các cấp, sự phối hợp có hiệu quả của các cấp, các ngành, Mặt trận và các tổ chức đoàn thể, cùng với tinh thần lao động cần cù, sáng tạo của bà con nông dân, tình hình nông nghiệp, nông thôn và đời sống nông dân đã có những bước tiến bộ khá toàn diện và to lớn. Sản xuất nông nghiệp không ngừng phát triển; kết cấu hạ tầng kinh tế- xã hội nông thôn được tăng cường, nhất là giao thông, thủy lợi, góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển, làm thay đổi bộ mặt nông thôn. Các hình thức tổ chức sản xuất ở nông thôn tiếp tục được đổi mới. Đời sống vật chất, tinh thần của nông dân ở hầu hết các vùng nông thôn ngày càng được cải thiện. Hệ thống chính trị và vai trò lãnh đạo của tổ chức Đảng ở nông thôn được tăng cường, dân chủ cơ sở được phát huy, an ninh trật tự xã hội nông thôn được giữ vững. Tuy nhiên, nông nghiệp, nông thôn phát triển chưa bền vững. Sản xuất nông nghiệp còn lệ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên. Quy mô sản xuất nhỏ lẻ, phân tán, chưa trở thành hàng hóa tập trung. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp chậm. Hệ thống cơ sở vật chất- kỹ thuật phục vụ nông nghiệp còn nhiều yếu kém. Kỹ thuật thâm canh, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật của bà con nông dân còn thấp. Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn còn dàn trải. Quy mô, hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ trong nông nghiệp, nông thôn chưa cao, nhất là dịch vụ đầu ra chưa có hiệu quả, vẫn còn rất lúng túng. Các hợp tác xã nông nghiệp tuy đã chuyển đổi nhưng hiệu quả hoạt động chưa cao, lúng túng trong định hướng kinh doanh dịch vụ. Các hình thức hợp tác còn mang tính tự phát. Kinh tế trang trại, gia trại quy mô nhỏ, đang gặp nhiều khó khăn về vốn, kỹ thuật và thị trường tiêu thụ. Tỷ lệ hộ nghèo ở nông thôn còn cao. Nhiều vùng nông thôn thuần nông, ngành nghề dịch vụ phát triển chậm, lao động thiếu việc làm, tỷ lệ lao động nông nghiệp được đào tạo còn thấp. - Về nông nghiệp: Cơ bản các ý kiến nhất trí với 7 nhóm nhiệm vụ giải pháp, trong đó nhấn mạnh đến việc đẩy mạnh thâm canh, chuyên canh, tăng năng suất cây trồng, vật nuôi. Thường vụ Tỉnh ủy đề nghị vẫn giữ mục tiêu đến năm 2020 đạt 20.000 ha lúa chất lượng cao, chiếm 85% diện tích lúa nước, bình quân mỗi năm chỉ tăng khoảng 1.000 ha. Chỉ tiêu tỷ trọng chăn nuôi là 30% vào năm 2010; 40% vào năm 2020, vì đây là mục tiêu của Nghị quyết Đại hội XIV, cấp ủy không thể điều chỉnh mà chỉ bàn biện pháp phấn đấu để thực hiện; vả lại trong nông nghiệp tiềm năng trồng trọt đã đến thời kỳ bảo hòa, trong khi đó tiềm năng về phát triển chăn nuôi còn rất lớn, nếu khắc phục được tình trạng dịch bệnh và phát triển chăn nuôi theo hướng công nghiệp, bán công nghiệp, mô hình trang trại, gia trại thì chắc chắn sẽ tăng nhanh về tổng đàn và tỷ trọng chăn nuôi. - Cần tập trung phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, ngành nghề dịch vụ trong nông nghiệp để chuyển dịch lao động. Đặc biệt là khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp chế biến, ngành nghề. Mở rộng hoạt động kinh doanh thương mại, dịch vụ phục vụ sản xuất và đời sống của nông dân (khi nông nghiệp hàng hóa phát triển càng cao thì nhu cầu phát triển dịch vụ càng lớn). - Về hình thức tổ chức sản xuất trong nông nghiệp: Kinh tế hộ gia đình giữ một vai trò hết sức quan trọng. Vì vậy cần tập trung mở rộng quy mô để kinh tế hộ vươn lên tổ chức sản xuất kinh doanh dịch vụ tổng hợp. Đẩy mạnh mô hình liên kết kinh tế hộ gia đình; các mô hình gia trại, trang trại. Để thực hiện tốt vấn đề này, một trong những giải pháp đầu tiên là đẩy mạnh dồn điền đổi thửa, tích tụ ruộng đất; sớm hoàn thành việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho nông dân; giải quyết dứt điểm tình trạng tranh chấp địa giới hành chính, tranh chấp đất đai giữa các địa phương với các tổ chức kinh tế... Đối với HTX, tiếp tục củng cố theo hướng mở rộng quy mô liên thôn, toàn xã; đổi mới hoạt động theo hướng đa dạng hóa kinh doanh dịch vụ tổng hợp, nhất là hỗ trợ tiêu thụ các nông sản hàng hóa cho nông dân. Bên cạnh đó, phải khuyến khích doanh nghiệp tư nhân phát triển sản xuất kinh doanh, dịch vụ trong nông thôn gắn phát triển công nghiệp chế biến nông lâm thủy sản với nông dân và vùng sản xuất nguyên liệu. Lâu nay, Nhà nước ta có rất nhiều chính sách đối với nông nghiệp nhưng hiệu quả đưa lại thấp, không tương xứng. Vấn đề đặt ra là phải thông qua việc chấn chỉnh lại hệ thống tổ chức để làm sao mỗi chính sách trợ giúp của Nhà nước thực sự đến với người nông dân nhưng phải có con người, tổ chức cùng với nông dân chịu trách nhiệm về kết quả cuối cùng của việc thực hiện chính sách. - Về nông thôn: Những năm qua, hệ thống cơ sở hạ tầng ở nông thôn đã được chú trọng đầu tư, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu phát triển và dân sinh, nhất là hệ thống các công trình thủy lợi, hệ thống giao thông nông thôn, trường học, trạm xá, điện... Tuy nhiên, công tác đầu tư vẫn còn dàn trải, nhỏ lẻ, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn. Thực tế hiện nay, cơ sở vật chất và thiết chế văn hóa tuy có được tăng cường nhưng chưa đáp ứng so với nhu cầu của người dân. Trên toàn tỉnh chỉ mới có 43% số thôn, bản có nhà văn hóa, hoặc trụ sở sinh hoạt cộng đồng thì quá thấp. Để thực hiện tốt vấn đề này phải có những biện pháp tích cực, trong đó đặc biệt chú trọng đến vấn đề vừa xã hội hóa, vừa đầu tư qua ngân sách Nhà nước để đầu tư xây dựng các cơ sở vật chất và các thiết chế văn hóa cơ sở. Từ nay trở đi cần chú ý tăng tỷ trọng vốn đầu tư hàng năm cho đầu tư cơ sở vật chất hạ tầng ở nông thôn. - Về nông dân: Giải quyết việc làm cho nông dân là nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu trong phát triển sản xuất nông nghiệp hiện nay. Một thực tế cho thấy hiện nay xu hướng lao động nông nghiệp đã chuyển sang lao động công nghiệp, dịch vụ. Yêu cầu đặt ra là phải có kế hoạch cụ thể về đào tạo nghề và chính sách đảm bảo đào tạo đến đâu sử dụng đến đó, khắc phục tình trạng đào tạo chưa gắn liền với sử dụng. Phải tập trung mọi nguồn lực và tăng cường chỉ đạo thực hiện đồng bộ các chính sách về tăng trưởng và xóa đói giảm nghèo, đặc biệt là đối với vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn. Từ đó đặt ra trách nhiệm đối với các tổ chức Đảng, chính quyền, các tổ chức đoàn thể chính trị-xã hội ở nông thôn trong việc xây dựng đào tạo, bồi dưỡng giúp đỡ cho tổ chức Hội Nông dân và nông dân. Nói nông nghiệp, nông dân, nông thôn, nhưng tựu trung lại của 3 vấn đề này là nông dân. Trên thực tế, xét trong mối quan hệ tương quan của "tam nông", công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế xã hội mà ở đó, nông dân là chủ thể, là lực lượng sản xuất căn bản, đóng vai trò quyết định. Vì vậy, để nông dân thực sự là chủ thể của quá trình phát triển của nông nghiệp, nông thôn, trước hết người nông dân phải được quan tâm đầu tư nâng cao trình độ canh tác, áp dụng tốt khoa học kỹ thuật vào đồng ruộng thông qua các cuộc tập huấn, đào tạo có trọng tâm, trọng điểm. Đây là công việc thường xuyên trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy Đảng, chính quyền và trách nhiệm của các ngành, trước hết là ngành nông nghiệp các cấp. Nhà nước cần thực hiện tốt chính sách đất đai, vốn, kinh nghiệm làm ăn đối với người nông dân; sát cánh với nông dân để có những chủ trương, chính sách, giải pháp thích ứng, can thiệp hiệu quả những vướng mắc mà người nông dân gặp phải trong sản xuất kinh doanh. Về kinh tế-xã hội năm 2008 và phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế- xã hội năm 2009. - Đa số các ý kiến đều cho rằng, bước vào thực hiện nhiệm vụ kinh tế- xã hội năm 2008, năm bản lề của kế hoạch kinh tế xã hội 5 năm 2006-2010, bên cạnh những thuận lợi rất cơ bản, tình hình của tỉnh có những khó khăn, thách thức hết sức gay gắt nên trong phần đánh giá nhấn mạnh thêm kết quả đạt được về tăng trưởng kinh tế-xã hội trong năm 2008 là hết sức quan trọng. - Một số ý kiến cho rằng, có nhiều mục tiêu trong dự thảo như mục tiêu tăng trưởng kinh tế; tỷ lệ dân cư sử dụng nước hợp vệ sinh... là quá cao. Về vấn đề này, các ngành chức năng giải trình, vì vậy Ban Thường vụ đề nghị giữ nguyên mục tiêu tăng trưởng kinh tế và điều chỉnh mục tiêu sử dụng nước hợp vệ sinh của cư dân ở nông thôn từ 70% hiện nay lên 75% năm 2009. - Về nhiệm vụ, giải pháp: Trong dự thảo có 9 nhóm nhiệm vụ, giải pháp, một số ý kiến góp ý bổ sung, làm rõ thêm cho từng nhóm nhiệm vụ, giải pháp. + Về tập trung phát triển nông nghiệp, nông thôn: Tiếp tục chuyển đổi cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp và nông thôn. Đẩy mạnh thâm canh, chuyên canh, tăng năng suất, tăng giá trị trên một đơn vị diện tích canh tác... Để giải quyết vấn đề này trước hết phải làm tốt công tác giống và chuyển giao tiến bộ kỹ thuật cho nông dân để đầu tư thâm canh. Lâu nay, chúng ta đã nói nhiều đến vấn đề chất lượng giống, công nghệ sinh học, làm thế nào để có đủ giống đảm bảo năng suất, chất lượng và kháng bệnh cao, đáp ứng nhu cầu của người dân, nhưng vẫn chưa làm được. Một trong những giải pháp cần phải được chú trọng thực hiện nữa là đẩy mạnh công tác dồn điền đổi thửa, tích tụ ruộng đất, mở rộng quy mô sản xuất trong nông nghiệp. + Về đẩy mạnh phát triển công nghiệp- xây dựng cơ bản: Thường vụ Tỉnh ủy đề nghị cấp ủy thống nhất chọn 3 công trình trọng điểm để tập trung chỉ đạo thực hiện đúng tiến độ trong năm 2009 là cầu Cửa Việt, Quảng trường và Nhà văn hóa trung tâm tỉnh; quy hoạch tổng thể cảng đào Mỹ Thủy, khu kinh tế biển Đông Nam và sân bay lưỡng dụng, để đề nghị Chính phủ chính thức đưa vào quy hoạch trong hệ thống cảng sâu và sân bay của cả nước. Đồng thời, tập trung chỉ đạo để đẩy nhanh tiến độ xây dựng các dự án đã được khởi công từ năm 2008 trở về trước và sớm đưa vào khai thác sử dụng. Tạo điều kiện giúp đỡ và khuyến khích các chủ dự án đã cấp phép đầu tư khẩn trương thi công vào những tháng đầu, quý đầu của năm 2009. chú ý chỉ đạo việc đầu tư xây dựng khu kinh tế- thương mại đặc biệt Lao Bảo, tuyến hành lang kinh tế Đông - Tây, các khu công nghiệp, các khu dịch vụ- du lịch và thị xã tỉnh lỵ. Quan tâm chỉ đạo các công trình thủy lợi, giao thông, đặc biệt là các công trình bố trí vốn từ trái phiếu Chính phủ. + Về các vấn đề xã hội: Năm 2009 Nhà nước sẽ tăng đầu tư ngân sách cho các lĩnh vực văn hóa xã hội, giáo dục, y tế, xóa đói giảm nghèo; bảo đảm phát triển kinh tế gắn liền với việc giải quyết ngày càng tốt hơn các vấn đề văn hóa- xã hội. Một trong những vấn đề cần tập trung là phải đổi mới cơ chế chính sách, nhất là cơ chế chính sách tài chính để khuyến khích phát triển nhanh sự nghiệp giáo dục đào tạo và chăm sóc sức khỏe nhân dân. Phải phấn đấu thực hiện mục tiêu giảm nghèo nhanh và bền vững thông qua việc đẩy mạnh các chương trình đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn và các chương trình hỗ trợ về sản xuất và đời sống cho đồng bào nghèo, đồng bào có hoàn cảnh khó khăn. Triển khai thực hiện tốt việc cho vay xóa đói giảm nghèo. Tập trung chỉ đạo để phát triển nhanh đào tạo nghề và giải quyết việc làm. + Về một số các vấn đề khác: Tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, tập trung trước hết vào những nơi, những việc đang gây vướng mắc, phiền hà cho người dân và doanh nghiệp. Nâng cao năng lực điều hành, thực hiện của chính quyền các cấp, đặc biệt là cấp phường, xã. Tập trung chỉ đạo giải quyết dứt điểm, có kết quả các khiếu nại, tố cáo của công dân ngay từ cấp cơ sở, hạn chế tình trạng vượt cấp quá tải như hiện nay. Kính thưa các đồng chí! Sau hội nghị lần này, trên cơ sở những mục tiêu, nhiệm vụ được thông qua, vấn đề quan trọng là chúng ta tổ chức thực hiện như thế nào cho có kết quả. Tôi đề nghị, ngay sau hội nghị này, các cấp ủy và tổ chức Đảng, các Sở, ban ngành phải thể chế hóa, cụ thể hóa những chủ trương, giải pháp... đã được hội nghị thông qua; đồng thời phải thường xuyên đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện. Mong rằng, trên từng phần hành nhiệm vụ được phân công, mỗi đảng viên và tổ chức Đảng phải gương mẫu thực hiện Nghị quyết của Đảng, kế hoạch của Nhà nước; tạo được phong trào hành động cách mạng trong toàn dân quyết tâm thực hiện thắng lợi những mục tiêu, nhiệm vụ đã đề ra. Với tinh thần đó, tôi xin tuyên bố bế mạc Hội nghị lần thứ 14 Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Trị (Khóa XIV). Xin chúc các đồng chí sức khỏe! Xin chân thành cảm ơn!