Phát triển ngành dịch vụ trong tình hình mới
Phát triển ngành dịch vụ trong tình hình mới

Phát triển ngành dịch vụ trong tình hình mới

Trong cơ cấu ngành kinh tế của tỉnh ta, ngành dịch vụ chiếm tỷ trọng khá lớn (trên dưới 38%), nhưng vẫn là các ngành mới và còn khiêm tốn, đặc biệt là thiếu những ngành dịch vụ chất lượng cao và tạo ra giá trị lớn. Trong những năm gần đây tốc độ tăng trưởng dịch vụ luôn thấp hơn tốc độ tăng GDP (giai đoạn 2001- 2005, tốc độ tăng trưởng bình quân ngành dịch vụ ở mức 6,8% thì tốc độ tăng trưởng kinh tế là 8,7%; năm 2006 tốc độ tăng tương ứng là 8,44%, 11,54%; năm 2007: 9,8%, 11,2%), do vậy xu hướng gia tăng tỷ trọng dịch vụ là chưa vững chắc.

Nguyên nhân, các ngành dịch vụ vẫn còn bị xem nhẹ cả về nhận thức, thể chế, chính sách cho đến các hoạt động kinh doanh. Nhìn chung, các ngành dịch vụ chưa đáp ứng tốt những yêu cầu về số lượng và chất lượng ngày càng tăng của nền kinh tế. Xét ở khía cạnh khác, triển vọng phát triển các ngành dịch vụ là lớn do còn nhiều tiềm năng chưa được khai thác và phát huy đúng mức. Theo mục tiêu đến năm 2010 khi tỉnh Quảng Trị thoát khỏi nhóm tỉnh nghèo của cả nước, tỷ trọng giá trị sản phẩm ngành dịch vụ trong GDP chiếm từ 38 - 40%, mục tiêu này là không quá khó. Tuy nhiên, nếu không có các biện pháp thích hợp để phát triển các ngành dịch vụ thì rất khó có thể đạt được mục tiêu nêu trên. Điều này được minh chứng rõ bởi thực tế rằng, năm 2002 tỷ trọng dịch vụ trong GDP của tỉnh đạt 38,6%, tăng lên đỉnh điểm 39,5% vào năm 2005, nhưng lại giảm xuống 37,6% năm 2006, và chỉ còn 37% năm 2007 tức là sau 5 năm tỷ trọng dịch vụ trong GDP giảm đi 1,6%. Ở bối cảnh từ nay đến năm 2010 có những khác biệt so với giai đoạn từ năm 2002 đến nay. Một mặt, các ngành dịch vụ có điều kiện phát triển thuận lợi do chính sách của Đảng và Nhà nước, mặt khác các ngành này buộc phải tìm mọi cách phát triển để có thể đứng vững trong cạnh tranh khi đất nước ta thực hiện các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế. Nhưng với tình hình lạm phát 2 con số và đồng hành cùng với sự gia tăng của giá cả hiện nay sẽ ảnh hưởng đến cầu dịch vụ. Điều này cho thấy rằng mục tiêu tăng thêm 3% về tỷ trọng dịch vụ trong GDP trong khoảng thời gian từ nay đến năm 2010 là sẽ khó khăn. Vấn đề đặt ra là cần phải có những đổi mới quan trọng về những chủ trương, bước đi, quyết sách cũng như thực hiện các biện pháp có hiệu quả thúc đẩy phát triển các ngành dịch vụ.

Cơ sở sản xuất Công ty may Hoà Thọ đang được xây dựng tại Khu công nghiệp Nam Đông Hà

Để phát triển các ngành dịch vụ Quảng Trị trong tình hình mới và thực hiện thành công mục tiêu mà Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV đề ra đối với các ngành dịch vụ, theo chúng tôi cần phải thực hiện đồng bộ một số giải pháp sau: Thứ nhất, cần tiến hành rà soát tất cả các ngành dịch vụ để đánh giá hiện trạng, năng lực cạnh tranh, tiềm năng và xu hướng phát triển, trên cơ sở đó xây dựng một kế hoạch phát triển các ngành dịch vụ của tỉnh từ nay đến năm 2020. Việc rà soát nên được thực hiện trên cơ sở nghiên cứu đặc thù và lợi thế so sánh của tỉnh, cùng với các ngành dịch vụ được phân định bởi Hiệp định chung về các Dịch vụ liên quan đến Thương mại (GATS) của WTO, bao gồm các ngành: Dịch vụ kinh doanh; Dịch vụ liên lạc; Dịch vụ xây dựng và thi công; Dịch vụ phân phối; Dịch vụ giáo dục; Dịch vụ môi trường; Dịch vụ tài chính; Các dịch vụ liên quan đến sức khoẻ và các dịch vụ xã hội; Các dịch vụ du lịch và liên quan đến du lịch; Các dịch vụ giải trí và thể thao; Các dịch vụ vận tải; và các dịch vụ khác. Việc xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển dịch vụ phải gắn kết chặt chẽ với việc xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển công nghiệp và các chương trình đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Thứ hai, tăng cường huy động các nguồn lực trong xã hội bằng việc đẩy mạnh hoạt động kêu gọi sự tham gia của các doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh vào đầu tư, kinh doanh các ngành dịch vụ, tăng mức độ cạnh tranh trên thị trường. Cần tiếp tục thực hiện Nghị định 31/2005/NĐ-CP của Chính phủ về sản xuất và cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích, cho phép doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế và hợp tác xã đều được tham gia sản xuất và cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích theo các phương thức đặt hàng, đấu thầu hoặc giao kế hoạch. Nghị định này đang mở ra cho các chủ thể kinh tế ngoài nhà nước những cơ hội đầu tư, kinh doanh mới, vì vậy có thể tạo ra một cuộc chạy đua thực sự giữa các thành phần kinh tế trong việc sản xuất và cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích- những hàng hoá trước đây thường gắn chặt với các doanh nghiệp nhà nước. Như vậy, tỉnh cần đẩy mạnh hoạt động hướng dẫn, tuyên truyền và có các chính sách thích hợp để đưa Nghị định này đi vào cuộc sống. Trong một số ngành dịch vụ mang tính xã hội như giáo dục, y tế, văn hoá, thể thao, môi trường..., cần đẩy mạnh công tác xã hội hoá. Muốn vậy, tỉnh cần nghiên cứu xây dựng và ban hành các quy định về phương thức và các hình thức xã hội hoá nằm trong khuôn khổ phù hợp với quy định pháp lý và các chính sách của Đảng và Nhà nước. Thứ ba, cần có các chính sách trợ giúp thích hợp những doanh nghiệp mới tham gia đầu tư và kinh doanh các ngành dịch vụ hoặc những doanh nghiệp tham gia đầu tư và kinh doanh các ngành dịch vụ mới, nhất là về phát triển nguồn nhân lực. Có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp mở rộng kinh doanh dịch vụ đến các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, một mặt nhằm giúp các doanh nghiệp chiếm lĩnh thị trường trong tỉnh, hướng đến thị trường trong nước và quốc tế, mặt khác đáp ứng các nhu cầu đời sống kinh tế-xã hội của những vùng khó khăn, vùng núi, vùng có đồng bào dân tộc ít người. Có chính sách khuyến khích, hỗ trợ các doanh nghiệp xuất khẩu dịch vụ ra nước ngoài dưới các hình thức đa dạng. Ngoài ra, cần khuyến khích các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đầu tư vào lĩnh vực dịch vụ như: kế toán, thiết kế kỹ thuật, thiết kế phần mềm... Thứ tư, nâng cao năng lực cạnh tranh của các ngành dịch vụ thông qua các giải pháp như: đẩy mạnh thực hiện lộ trình giảm giá cước dịch vụ xuống mức ít nhất là ngang bằng với các doanh nghiệp trong nước và khu vực; tăng cường ứng dụng khoa học, công nghệ hiện đại vào sản xuất và kinh doanh dịch vụ; phát huy lợi thế so sánh của từng ngành, từng vùng, từng thời kỳ; thay đổi phương thức và thái độ phục vụ để hướng tới khách hàng nhiều hơn, vì lợi ích của khách hàng... Đáp ứng với những thách thức trong quá trình hội nhập, trước hết tỉnh cần xây dựng kế hoạch tham gia lộ trình mở cửa dịch vụ thích hợp, phù hợp với những cam kết quốc tế của nhà nước và sát với thực tế của tỉnh, tiếp đến các ngành, các cấp và các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ trong tỉnh cần có sự chuẩn bị kỹ lưỡng, chủ động, sẵn sàng đón nhận sự cạnh tranh ở thị trường tỉnh, trong nước và nước ngoài. Với sự chuẩn bị chu đáo cho những bước đi thích hợp, tin tưởng rằng, ngành Dịch vụ Quảng Trị sẽ đạt được mục tiêu mà Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV đề ra.

Lê Thế Quảng