Thời sinh viên, năm cuối tôi được gửi ra học khoa Ngữ văn, Đại học Tổng hợp Hà Nội, theo chế độ thời ấy gọi là “biệt phái”, nghĩa là tiêu chuẩn học bổng hoặc lương vẫn do trường Đại học Tổng hợp Huế chu cấp. Học bổng sinh viên thời đó mỗi tháng 18 đồng và 16 kg lương thực qua tem phiếu. Tôi đi học được hưởng chế độ trợ cấp mỗi tháng 28 đồng. Nhưng người ta nghĩ chúng tôi từ miền Nam ra học, cũng giống như lưu học sinh nước ngoài nên bố trí cho chúng tôi ở khu ký túc xá dành riêng cho sinh viên nước ngoài ở Trung Tự. Ở đây có ba sinh viên người Lào học lớp tôi và không biết bao nhiêu lần tôi hứa hẹn sẽ đi Lào thăm quê bạn.
![]() |
Một khu nghỉ dưỡng ở tỉnh Savannakhet - Ảnh: I.T |
Xăctixucs, một chàng trai da ngăm đen, có vẻ đẹp rắn rỏi của một cầu thủ bóng đá và trong thực tế, anh học thì ít mà chơi bóng thì nhiều. Anh và tôi cùng làm khóa luận tốt nghiệp do thầy Bùi Ngọc Trác hướng dẫn. Tốt nghiệp ra trường khoảng hai mươi năm sau, tôi tình cờ gặp lại Xăctixucs một lần, trong chuyến anh đi tham quan Huế. Xuvanpheel, một cô gái sinh ra và lớn lên tại thủ đô Vientiane, trong một gia đình có truyền thống văn hóa nghệ thuật, chị ruột là nhà văn Xuvannone nên cô có năng khiếu văn chương, học rất giỏi nhưng ít bạn.
Ra trường, cô về công tác ở một tòa soạn báo, trở thành phóng viên chiến trường và đã hy sinh trong cuộc chiến tranh biên giới giữa Lào và Thái Lan năm 1987. Nethe Alee, một cô gái lai, mũi cao, da trắng, đẹp một cách quý phái. Tính tình trầm lặng và kín đáo, học giỏi, sau khi tốt nghiệp, cô về công tác ở Bộ Ngoại giao, sau đó đi làm Tham tán hay Đại sứ của CHDCND Lào tại một nước châu Âu.
Sau này, tôi mới biết bố cô người Pháp, tham gia Đảng Xã hội Pháp, từng có mặt trong đội quân viễn chinh sang Đông Dương, yêu mẹ cô một phụ nữ thuộc tầng lớp danh gia vọng tộc, có họ hàng xa với lãnh tụ Cay Xỏn Phôm Vi Hản nên kết thúc chiến tranh ông định cư ở quê vợ là thị xã Savẵn (nay là thành phố Cay Xỏn Phôm Vi Hản), thuộc tỉnh Savannakhet. Nethe Alee được sinh ra và lớn lên bên dòng sông Mê kông ầm ào chảy xiết nhưng không kém phần thơ mộng này.
Và, cũng sau này tôi mới biết, Savannakhet trong tiếng Lào có nghĩa là thiên đường. Chao ơi! Hẹn gặp nhau ở thiên đường mà sao cứ lần lữa mãi, đến ba mươi lăm năm sau, tôi mới chạm mặt thiên đường! Cảnh vật là đây nhưng người xưa chỉ còn trong ký ức…
Từ Huế, tôi vượt hơn 400 cây số đường bộ để đến với thiên đường. Savannakhet là một tỉnh thuộc Trung Lào, phía Đông giáp tỉnh Quảng Trị của Việt Nam. Ngoài thành phố tỉnh lỵ Cay Xỏn Phôm Vi Hản -thành phố lớn thứ nhì sau thủ đô Vientiane, còn có mười bốn huyện và Sê Pôn-huyện giáp với thị trấn Lao Bảo của tỉnh Quảng Trị. Đây là tỉnh có khoảng ba phần tư diện tích đất đai là rừng núi, có gần 800 nghìn dân, thuộc bộ tộc Lào Lùm, chủ yếu sống bằng nghề nông, buôn bán nông sản và dịch vụ, có cầu Hữu Nghị II dài 1.600 mét, bắc qua sông Mê kông được xây dựng từ năm 2006, nối liền từ Myanma, Thái Lan, Lào và Việt Nam, tạo nên Hành lang kinh tế Đông-Tây ra đến tận Biển Đông.
Về giáo dục, nơi đây có trường Cao đẳng Sư phạm Savannakhet là trường có truyền thống đào tạo nổi tiếng, nhất là đào tạo ngoại ngữ, mà chủ yếu là tiếng Anh và tiếng Việt, có đội ngũ chuyên gia nước ngoài tham gia giảng dạy. Ngoài ra, còn có trường phổ thông ba cấp (I,II và III) dạy bằng tiếng Lào và tiếng Việt, chủ yếu cho con em người Việt, bởi vì dân số người Việt ở đây chiếm khoảng mười phần trăm…
Buổi chiều, tôi mắc kẹt ở thiên đường. Vì ô tô bên Thái dùng tay lái nghịch, chúng tôi phải dừng xe bên này cầu Hữu Nghị II, nhìn sang bên kia bờ sông Mê kông những ngôi nhà cao tầng nhấp nhô như một dải ngân hà. Đêm, mất ngủ ở thiên đường. Sau bữa tối với các món ăn Lào đậm đà, chúng tôi về nghỉ ở khách sạn kiêm sòng bạc (hotel and casino) Savan Vegas. Đây là khách sạn năm sao đạt chuẩn quốc tế duy nhất ở đây do Dr. Thanakorn Chaiyakul, một người Lào sống ở Mỹ về đầu tư xây dựng, trang trí nội thất thật sang trọng, từ thảm trải sàn hành lang đến bồn tắm, từ điện thoại đến tivi đều “made in American”.
Chỉ nhìn đội xe mang nhãn hiệu của khách sạn Sanvan Vegas (hotel and casino) khoảng 50 chiếc, đủ các loại, trong đó có loại xe Ascalade, sơn đen, lắp kính chống đạn, trên thị trường hiện nay giá hơn chục tỉ đồng tiền Việt cũng đã thấy đây là nơi sang trọng chốn thiên đường. Lạ một điều là phòng ngủ thì sang nhưng lại không có dép để đi trong phòng kể cả đi nhà vệ sinh hoặc xuống nhà ăn. Cũng có thể là do khách sạn đã trải thảm quá sạch từ sàn nhà vào tận nhà tắm, xuống tận cầu thang, đến các hành lang nhưng cũng có thể do quan niệm truyền thống của người Lào xuất thân từ chân đất, lại quen sống trên nhà sàn nên không quen đi dép trong nhà!
Lạ nữa là, trong căn phòng sang trọng vậy mà tôi không sao ngủ được. Tôi ôm cái tâm trạng của Chế Lan Viên Đêm xa nước đầu tiên ai nỡ ngủ, tôi cầm vé miễn phí, xuống casino. Mỗi phòng nghỉ có đặt sẵn hai vé ăn sáng và hai vé miễn phí vào cửa casino, dùng cho người nước ngoài trên 21 tuổi. Kèm với đó là khuyến mãi 500 nghìn tiền kíp. Cứ tưởng ngồi vào sòng thì được phát tiền, hóa ra phải nộp tiền chơi gấp đôi tiền khuyến mãi. Thành ra tôi vào casino chỉ để đứng nhìn.
Cứ hẹn hò, lần lữa mãi, cuối cùng tôi cũng đến được đất nước Lào. Nếu trong cuộc đời, cuộc hẹn nào diễn ra nhiều lần nhất, thời gian kéo dài lâu nhất đối với tôi, đó là chuyện đi Lào. Từ thời còn là sinh viên đại học, đến nay đã nghỉ hưu, không hiểu sao trong tôi luôn ước vọng muốn đi, muốn đến, muốn khám phá tường tận đất nước Lào. |
Tôi cũng đã từng nghe các nhà báo Trần Đăng, Nguyễn Thịnh, Lâm Chí Công kể chuyện, kèm theo lời rủ rê mời mọc về các chuyến đi đến các sòng bài, các sàn nhảy, các vị ngọt ở thiên đường chảy tràn một cách nuông chiều ý thích rong chơi, vỗ về như mật ngấm vào đáy sâu bãi bồi ký ức. Nhưng tôi cũng đã từng ngậm đắng nuốt cay, gặm nhấm, đồng cảm với người bạn tên là Nguyễn Khắc Bình, lái xe tải đường Lào không chuyến nào là không quá trọng tải, gấp đôi, có khi gấp ba, mặn đắng với giọt mồ hôi mới kiếm được đồng tiền, nói về cuộc sống nghèo khó của tầng lớp cần lao giữa chốn thiên đường. Thiên đường không dành cho tất cả mọi người. Ở bất cứ đâu, cho dù ở thiên đường cũng có nỗi đau, thậm chí giữa nỗi đau và niềm hạnh phúc, đôi khi chỉ cách nhau trong gang tấc.
Nhớ buổi chiều ở Vientiane, đi thăm Buddha Park (công viên chư Phật), có một bệ thờ tròn như quả địa cầu nhiều tầng, ở tầng cuối cùng tối tăm sâu hun hút nằm dưới mặt đất gọi là địa ngục, leo lên tầng cao đến rợn ngợp và chóng mặt trên cùng là chốn thiên đường. Dù sao, nếu bỏ qua những nghèo đói, lạc hậu của một đất nước chậm phát triển, theo một ý nghĩa nào đó, một xã hội bình ổn, không trộm cắp, giao thông trật tự được bảo đảm…cũng là chốn thiên đường.
Khi thăm tháp Ing Hăng, tôi gặp ông Lê Hải, tên Lào là Pretvilhia, năm nay đã ngoài tám mươi, quê gốc ở Thuận An (Huế), sang định cư ở đây hơn 50 năm, biết tôi là người Việt nên tay bắt mặt mừng, ông tâm sự: “Nhiều lúc nhớ quê, nhớ biển đến khát cháy trong lòng nhưng về thăm rồi lại muốn trở qua bên này. Con cháu đã thành đạt hết, tôi muốn ở đâu mà chẳng được nhưng đã quen với cuộc sống bình lặng, con người hiền hòa thân thiện ở chốn này. Thỉnh thoảng nhớ quê, lại chống gậy ra đây, mong gặp khách du lịch từ bên mình sang, nhìn vóc dáng, màu da, nghe tiếng nói cho đỡ nhớ!”.
Gần đây, có một cuộc hò hẹn chốn thiên đường, không phải tôi mà người hẹn với tôi đành lỗi hẹn. Đó là một người bạn, người anh, người đồng nghiệp đáng kính của tôi, nguyên là giảng viên bộ môn Logic học ở khoa tôi, nay đã nghỉ hưu. Từ hồi về dạy ở trường cho đến ngày nghỉ hưu, ngoài đi dạy ở trường và theo lịch mời của các trường, các trung tâm đào tạo đại học, anh chưa đi tham quan ở đâu nhưng nghe rủ đi Lào, anh đồng ý ngay, bởi anh có một phần thân thể gửi lại chốn thiên đường.
Ừ hè, mình sang để tìm lại cái phần thân thể còn gửi lại bên ấy. Anh sinh năm 1948, ở Tùng Ảnh, Đức Thọ, Hà Tĩnh. Năm 17 tuổi vào bộ đội, sang chiến đấu ở chiến trường Trung Lào, bị thương gãy mất một chân tại một khu rừng thuộc tỉnh Savannakhet. Có ai ngờ, chỉ một tuần sau, nghe bụng đau đau, anh đi khám, phát hiện bệnh xơ gan cổ trướng. Quả là trời không có mắt. Ai có đi qua chiến tranh, có chịu những tổn thất, mới cảm nhận hết nỗi đau ở những người như anh. Trong chiến tranh, Không có mất mát nào lớn hơn cái chết/Khăn tang vòng tròn là những số không.
Đành là vậy nhưng anh Phạm Tiến Duật ơi, người chết chỉ để lại nỗi đau về tinh thần cho những người đang sống, còn người bị thương, nỗi đau ấy được nhân đôi! Nhất là, năm ấy anh còn quá trẻ, xương còn phát triển, phải mổ đi mổ lại nhiều lần, mỗi khi xương dài đội căng thịt da…
Những cánh rừng ngập tràn bom đạn ngày xưa nay đã trở thành những rừng cao su bạt ngàn trôi nhấp nhô cuối tận chân trời. Tôi ngẫm rằng, nếu anh tận mắt nhìn thấy những cánh rừng cao su cũng do chính người Việt mình sang trồng này sẽ là liều thuốc giảm bớt nỗi đau anh mang gần suốt cả cuộc đời. Phước thầy may chủ, mong sao có thần dược, mong cho những bài thuốc nam anh đang dùng đúng bệnh, giúp anh sớm bình phục, để một lần thỏa mãn ước nguyện xuất ngoại, bởi nước Lào vẫn còn đây, thiên đường Savannakhet vẫn đây và lời hò hẹn cũng còn đây.
Bút ký: Phạm Phú Phong