(SK&ĐS) -
![]() |
Các dạng thoái hóa xương sụn tuổi thiếu niên
Do trong quá trình phát triển, cơ thể có rất nhiều xương với nhiều điểm cốt hóa khác nhau cho nên bệnh có thể gặp ở rất nhiều vị trí với các tên bệnh khác nhau. Nhóm có tổn thương ở cột sống gọi là bệnh gù đau thiếu niên Scheuermann. Nhóm có tổn thương ở khớp, xương như bệnh dẹt chỏm xương đùi có tổn thương ở chỏm xương đùi. Nhóm có tổn thương biểu hiện ở ngoài khớp hoặc không có đầy đủ những đặc điểm của nhóm bệnh thoái hóa xương sụn tuổi thiếu niên (do không còn ở tuổi thiếu niên hoặc do vị trí bệnh không đặc hiệu). Dấu hiệu nhận biết bệnh tương đối khó khăn do bệnh tiến triển âm ỉ, đau ít tại vị trí xương bị tổn thương. Đa số các các trường hợp mắc bệnh Sever hay bệnh Freiberg bệnh tự khỏi, không đau, xương không biến dạng. Ngược lại bệnh Legg- Perthes-Calve hay gây đau nhiều, để lại di chứng nặng nề, thường cần phải thay chỏm xương đùi.
Một số bệnh thường gặp
![]() |
Bệnh dẹt chỏm xương đùi: do tổn thương ở đĩa sụn phát triển ở đầu xương gần chỏm xương đùi. Bệnh hay gặp ở tuổi từ 3-12, hay gặp ở nam giới hơn (gấp 4-5 lần nữ). Tổn thương thường ở một bên, có thể gặp ở hai bên (15- 20% trường hợp). Triệu chứng đau tự nhiên ở khớp háng, gối hoặc vùng đùi, đi lại khập khiễng. Khám thấy hạn chế vận động khớp háng, đặc biệt động tác xoay trong hay dạng, có thể teo cơ nếu ở giai đoạn muộn. Chân tổn thương thường ngắn hơn chân lành. Xét nghiệm máu thường không phát hiện gì đặc biệt. Chụp Xquang khớp háng, đặc biệt ở tư thế dạng chân (chân ếch) có giá trị chẩn đoán: chỏm xương đùi bên tổn thương nhỏ hơn bên lành, có thể dẹt hẳn chỏm; có xơ hóa và hình ảnh giảm thấu quang ở vùng tổn thương dưới sụn; có thể có các nang xương nhỏ ở vùng cổ xương đùi. Thường chia 5 giai đoạn tổn thương trên Xquang và tiến triển bệnh: giai đoạn ngừng phát triển của đầu xương biểu hiện bên tổn thương chỏm xương đùi nhỏ hơn, khe khớp rộng hơn; giai đoạn gãy xương dưới sụn: hình vạch tăng thấu quang ở vùng cổ nối với chỏm; tiêu xương; thoái hóa thứ phát với mọc xương tân tạo; giai đoạn ổn định. Mục đích điều trị: cải thiện, duy trì biên độ vận động khớp háng, giảm sức nén lên chỏm, giữ cho chỏm ở trong ổ cối, kéo giãn khớp háng tránh co cơ. Việc điều trị bao gồm nghỉ ngơi hợp lý, tránh vận động mạnh, tập phục hồi chức năng, nẹp khớp háng khi cần để tránh trật khớp khỏi ổ cối. Thuốc điều trị triệu chứng giảm đau, giãn cơ. Phẫu thuật chỉnh sửa những biến dạng nhiều ở chỏm xương, khi cần có thể xét thay khớp háng (thường khi trẻ đến tuổi trưởng thành). Nhìn chung tuổi khởi phát bệnh càng nhỏ tiên lượng càng tốt, khởi phát sau tuổi lên 10 thì trẻ dễ bị thoái hóa khớp háng thứ phát.
ThS. Bùi Hải Bình (Khoa Cơ Xương Khớp-Bệnh viện Bạch Mai)