Ngọn cỏ ngoài đồng...
Đối với người nông dân, con trâu, con bò thường được dành cho một cách nhìn biệt nhãn, vừa trìu mến vừa thân gần và cả sự hàm ơn nữa. Quanh năm cày đất lật cỏ, xuân thu nhị kỳ xới xáo ruộng vườn, làm ra hạt thóc để nuôi mình, nuôi làng nước và góp phần ổn định xã hội, công lênh to lớn lắm, nhưng đứng đầu bảng cơ nghiệp nhà nông không gì khác chính lại là con trâu, con bò. Trâu, bò cùng người một nắng hai sương, cho đến khi có được hạt thóc, thì loài vật nuôi cật ruột này cũng còn ngọn cỏ thơm nơi đầu đồng, cuối bãi. Bao giờ cây lúa còn bông Thì còn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn... Ngàn năm trước cũng thế thôi. Sau vụ gặt, hạt thóc đã yên ấm trong bồ, chỉ còn đó luống rạ quê nghiêng ngả ruộng bùn, những dấu chân khắng phèn in ngập sục trên đất ẩm, cỏ mật thả sức lan man trên khắp mặt ruộng, bờ ruộng. Bấy giờ, trâu, bò mới được cởi ách, thư thái, nhẫn nha gặm cỏ, tận hưởng không khí mùa màng sực nức từ những bếp lửa ven làng thả khói lễnh đễnh trong sương chiều... Nhưng bây giờ, dường như mọi việc đã có những dích dắc theo chiều hướng khác rồi.
 |
Nuôi bò nhốt đem lại hiệu quả cao ở Cam Lộ |
Dồn điền đổi thửa thực sự là một cuộc cách mạng được tiến hành ngay trên đồng ruộng và có tác động sâu sắc đến lợi ích của chính người nông dân, được nông dân đồng tình, ủng hộ. Từ đây, đồng ruộng đã được quy hoạch lại một cách hợp lý để tiện cho việc đầu tư, thâm canh từng loại cây trồng. Mục đích hướng đến là thu được lợi nhuận cao nhất trên một đơn vị diện tích canh tác nhỏ nhất. Nhờ dồn điền đổi thửa, việc xây dựng cánh đồng có thu nhập từ 30, 40, 50 thậm chí 60 triệu đồng/ha/năm đã ra đời ở nhiều địa phương. Việc quy hoạch lại đồng ruộng cùng với diện tích đất đầu thải, đuôi thừa đã được tận dụng triệt để phát triển rau màu, nhất là ở những địa phương vùng đồng bằng, thuần nông, nên trên thực tế, diện tích đất có cỏ tươi tự nhiên cung cấp thức ăn cho trâu bò tại chỗ như bấy lâu nay hầu như không còn. Thêm vào đó, cơ giới hóa đang trở thành xu thế phát triển tất yếu trong sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Mức độ cơ giới hóa ngày càng tăng góp phần quan trọng vào việc tăng năng suất, giải phóng sức lao động, thúc đẩy phát triển ngành nghề, dịch vụ ở nông thôn. Tỷ lệ cơ giới hóa trong khâu làm đất ở Quảng Trị đã chiếm 55%, khâu thu hoạch gần 20%, khâu vận chuyển nông sản 45%...Qua số liệu trên cho thấy, những công việc nhà nông cực nhọc cậy nhờ sức vóc của trâu, bò ở nông thôn đang ít dần. Hay nói cách khác, ở nông thôn hiện nay, trâu, bò "nhàn" hơn trước nhiều. Ở vùng trung du, gò đồi, tình hình cũng không mấy khả quan, nếu xét về diện tích đồng cỏ tự nhiên để phát triển chăn nuôi. Việc tích tụ ruộng đất để phát triển kinh tế trang trại, mở rộng diện tích cây công nghiệp ở những vùng có điều kiện và thâm canh tăng năng suất các loại cây trồng có nhiều tiềm năng, lợi thế để phục vụ cho công nghiệp chế biến và tăng kim ngạch xuất khẩu nông sản đã làm cho một số lượng lớn diện tích vùng gò đồi, miền núi đưa vào khai thác hiệu quả. (Riêng diện tích trồng 3 loại cây chủ lực là cao su, hồ tiêu, cà phê, tính đến năm 2008 đã lên đến 20.561 ha). Chủ trương phát triển lâm nghiệp toàn diện theo hướng xã hội hóa nghề rừng gắn với tập trung khoanh nuôi, bảo vệ vốn rừng được đẩy mạnh đã đem lại lợi ích là rừng và đất rừng kinh tế cơ bản đã có chủ. Độ che phủ đã đạt đến con số khá cao là 44 % (năm 2008). Việc phát triển cây công nghiệp, cây lâm nghiệp đã đem lại một thực tế là diện tích đồng cỏ tự nhiên dành cho chăn nuôi đại gia súc ngày càng thu hẹp đáng kể. Đặc biệt, chăn nuôi trâu bò những năm gần đây luôn phải đối phó với dịch bệnh với sức tàn phá khủng khiếp, gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng, nhất là bệnh lở mồm long móng. Thiên tai với loại hình mới xuất hiện như rét đậm, rét hại kéo dài từ vụ thu - đông đến vụ đông - xuân nhiều năm qua cũng đã gây ngã đổ một số lượng lớn trâu bò, nhất là bê nghé, làm cho người chăn nuôi bị thiệt hại lớn. Tất cả những điều kiện khách quan và chủ quan trên dường như tác động bất lợi đến quá trình thúc đẩy phát triển đại gia súc trên địa bàn, nhất là đối với hai loại vật nuôi chính là trâu, bò? Trả lời câu hỏi của chúng tôi, ông Nguyễn Văn Bài, Giám đốc Sở NN-PTNT khẳng định, trong những năm gần đây, dịch bệnh trên gia súc bùng phát đã gây ảnh hưởng đến sản xuất, đời sống của người chăn nuôi. Tuy nhiên, với nỗ lực, phấn đấu của người nông dân và chính quyền các cấp, sự sâu sát trong quản lý, chỉ đạo, điều hành của ngành NN-PTNT nên chăn nuôi ở Quảng Trị vẫn duy trì được về số lượng và chất lượng tổng đàn. So với năm 2000, đàn trâu, bò vẫn tăng 19,5%. Hiện chăn nuôi chiếm tỷ trọng 20% trong cơ cấu sản xuất nông nghiệp. Ngành NN-PTNT Quảng Trị đang đặt ra mục tiêu phấn đấu nâng tỷ trọng giá trị sản lượng ngành chăn nuôi trong nông nghiệp đạt 30% vào năm 2010 và 35% vào năm 2015, 40% vào năm 2020. Để có thể giữ vững tổng đàn và chất lượng vật nuôi trước những biến động bất lợi của thiên tai, dịch bệnh, từ tháng 10 năm 1995 đến nay, những cán bộ chuyên trách công tác chăn nuôi của ngành nông nghiệp đã lao tâm khổ tứ, đầu tư công sức, tiền của để nâng cấp bằng được giống bò địa phương trên địa bàn 9 huyện, thị xã trong tỉnh. Nội dung là sử dụng nhóm bò Zebu có nguồn gốc nhiệt đới để cải tạo tầm vóc, các đặc điểm kém của giống bò địa phương bằng hai phương pháp: sử dụng tinh đông viên để phối giống nhân tạo (áp dụng cho vùng chăn nuôi có chăn dắt, có quản lý) và sử dụng bò đực lai 50-75% máu Zebu để phối giống trực tiếp (áp dụng cho vùng chăn nuôi đàn, vùng sâu, vùng xa). Sau hơn 10 năm thực hiện, cả hai phương pháp đã tạo ra được trên 10.000 bò lai, với trọng lượng cao hơn bò địa phương từ 50-70kg/con, đã góp phần tăng sản lượng thịt bò lên khoảng 600 tấn. Đưa các giống bò ngoại vào lai cải tiến đàn bò địa phương không những làm tăng năng suất thịt mà còn rút ngắn được thời gian nuôi bò thịt, giảm giá thành sản xuất thịt bò, tránh được rủi ro trong sản xuất do rút ngắn được thời gian nuôi. Tính giá trị giống so với chênh lệch nếu nuôi giống bò địa phương, mỗi bò cái 12-18 tháng tuổi có giá trị cao hơn từ 4-5 triệu đồng. Bên cạnh đó, hình thành được đàn bò giống thích nghi với điều kiện tự nhiên của địa phương, tạo được một phần đàn nền để tiếp tục lai tạo ra đàn bò thịt có năng suất cao hơn. Điều quan trọng là thông qua áp dụng tiến bộ kỹ thuật này đã giúp một bộ phận người chăn nuôi thay đổi phương thức thả rong truyền thống sang chăn nuôi thâm canh, quản lý được tổng đàn, giảm thiểu được tình trạng phá hoại rừng trồng, các loại cây công nghiệp, cây nguyên liệu. Mặt khác, dịch bệnh cũng được quản lý, nhất là các bệnh truyền nhiễm. Một vấn đề đặt ra, khi đồng cỏ chăn nuôi trâu, bò bị thu hẹp, để có thể duy trì tổng đàn và nâng tỷ trọng giá trị sản lượng ngành chăn nuôi lên cao hơn như lộ trình mà ngành NN-PTNT đặt ra, nhất thiết phải chú trọng đến khâu đầu tiên là gấp rút quy hoạch đồng cỏ, trồng cỏ để chủ động nguồn thức ăn cho trâu bò. Bên cạnh chủ động nguồn thức ăn, trồng cỏ thâm canh chăn nuôi cũng đem lại hiệu quả khá lớn. Theo thống kê thực tế, tiêu tốn vật tư, hom giống, công lao động để trồng mới 1 sào cỏ voi khoảng 600.000 đồng, sử dụng trong 3 năm nên khấu hao 200.000 đồng/sào/năm. Hàng năm, 1 sào cỏ voi thu khoảng 9 tấn chất xanh loại tốt với giá trị khoảng 2.800.000 đồng. Nếu dùng lượng cỏ này để nuôi 1 bò cái sinh sản thì hàng năm sẽ cho 1 bê con. Khi bê lớn vài năm tuổi có giá trị khoảng 4.000.000 đồng. Như vậy, trồng và thâm canh 1 sào cỏ voi để nuôi 1 con bò cái sinh sản, mỗi năm sẽ cho thu nhập khá cao. Trong tương lai gần, để đưa ngành chăn nuôi, nhất là chăn nuôi trâu, bò phát triển và chiếm tỷ trọng tương xứng trong cơ cấu sản xuất nông nghiệp, người chăn nuôi phải hướng sự quan tâm của mình vào việc tạo nguồn thịt dồi dào, chất lượng cao cho xã hội từ vật nuôi, thay vì tận dụng trâu bò làm sức kéo. Bên cạnh đó, không thể chăn nuôi theo lối tận dụng đồng cỏ tự nhiên, thả rong, mặc chăng hay chớ, thả nổi cho dịch bệnh, thời tiết bất lợi, mà phải chủ động tạo nguồn thức ăn cho trâu, bò đảm bảo số lượng, chất lượng. Đó phải được xem là sự chuyển biến cơ bản về nhận thức trong chăn nuôi đối với người nông dân hiện nay. Để cũng là ngọn cỏ ngoài đồng thôi, nhưng ngọn cỏ thời kinh tế nông nghiệp hội nhập với toàn cầu phải được đầu tư trồng trong các vùng đã được quy hoạch, có năng suất cao, chất lượng tốt, chủ động đáp ứng nhu cầu phát triển chăn nuôi hiệu quả và bền vững. Bài, ảnh: Đào Tâm Thanh