Tết ở quê hương 65 năm trước
(QT Xuân) - Một bài báo rút từ nhật ký tình cờ gặp lại. Mấy trang giấy úa vàng nhàu nát theo tháng năm. Nó làm cho tôi sững người trong giây lát, rồi hiện lên ngay sau đó những ký ức tuổi thanh xuân thời kháng chiến chống Pháp, một tuổi xanh cứ xanh mãi trong lòng mặc cho tóc bạc hết trên đầu. Vậy là đã 65 năm. Thế hệ chúng tôi thời ấy, cả những người không phải quân nhân chuyên nghiệp, đều ráng sống theo phong cách “Anh bộ đội Cụ Hồ”. Anh là tấm gương để noi theo mà rèn luyện. Anh thể hiện lý ...

Tết ở quê hương 65 năm trước

(QT Xuân) - Một bài báo rút từ nhật ký tình cờ gặp lại. Mấy trang giấy úa vàng nhàu nát theo tháng năm. Nó làm cho tôi sững người trong giây lát, rồi hiện lên ngay sau đó những ký ức tuổi thanh xuân thời kháng chiến chống Pháp, một tuổi xanh cứ xanh mãi trong lòng mặc cho tóc bạc hết trên đầu. Vậy là đã 65 năm. Thế hệ chúng tôi thời ấy, cả những người không phải quân nhân chuyên nghiệp, đều ráng sống theo phong cách “Anh bộ đội Cụ Hồ”. Anh là tấm gương để noi theo mà rèn luyện. Anh thể hiện lý tưởng của dân tộc, cho dù có gian khổ, hy sinh đến mấy cũng quyết giành bằng được độc lập, tự do. Mặc cho thời gian trôi, cứ xanh mãi trong lòng tôi hồi ức về nghĩa tình quân dân, đồng đội, đồng bào, tấm lòng những người mẹ Việt Nam coi mấy chú bộ đội người tứ xứ gặp lần đầu mà thân yêu tựa những đứa con chính mình rứt ruột sinh ra và chăm ẳm đến lúc nên người. Bộ đội đến, mang lại cho dân những khoảnh khắc bình an, chiến sĩ được dân chăm sóc, nuôi dưỡng sau những ngày đêm luyện tập, anh nào anh nấy mướt mồ hôi, mòn rách bộ quân phục trên người. Rồi bất ngờ - do bí mật việc quân - bộ đội được lệnh lên đường, có khi không kịp chào đồng bào. Những đứa con chợt đến chợt đi ngoái đầu nhắn lại, mẹ ơi chúng con đi đây, có những đứa lần ấy ra đi các mẹ sẽ không bao giờ gặp lại... Tôi là chú trai mới lớn hăm hở vào đời, công tác ở vùng tạm bị địch chiếm ở ba tỉnh miền Trung, “Bình Trị Thiên khói lửa”, “Bình Trị Thiên anh hùng”, “Đất có thể mất nhưng nước không mất bao giờ!”. Ra vùng tự do được ít lâu, tôi nhận quyết định trở lại chốn cũ người xưa, làm phóng viên báo Cứu quốc Liên khu IV. Thoả nguyện, tôi trở lại chiến khu Ba Lòng. Đồng chí Hà Văn Lâu, Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ huy quân sự Phân khu Bình Thiên, cấp cho phóng viên giấy giới thiệu kèm nụ cười: “Anh thích về sinh hoạt với đơn vị mô thì cứ về”. Phân khu Bình Trị Thiên thời ấy có ba trung đoàn quân chủ lực: Trung đoàn 18 ở Quảng Bình, 95 ở Quảng Trị, 101 ở Thừa Thiên - hầu hết đang rèn quân tại các vùng lõm đồng bằng sau lưng địch, chuẩn bị vào chiến dịch. Vốn quen nhau từ trước, anh Hà Văn Lâu khuyên tôi nên tham gia sinh hoạt với Trung đoàn 95, hiện trú quân quẩn quanh mấy xã thuộc huyện Hải Lăng nơi tôi chào đời. Vậy là giáp tết, tôi quay lại đồng bằng, về với trung đoàn 95, và thú vị sao được ăn tết Canh Dần 1950 chung với Đại đội 150, đơn vị chủ công của 95. Sẽ quá rườm rà cho một bài báo ngắn nếu kể lại chi li mọi sinh hoạt của quân dân ta ở Bình Trị Thiên những ngày trước và sau Tết năm ấy. Đấy là tết thứ tư kể từ lần ba tỉnh miền Trung tạm bị quân đội Pháp chiếm. Tết Đinh Hợi 1947, quân Pháp từ biển bất ngờ đổ bộ lên vùng duyên hải nam Thừa Thiên. Mặt trận Huế vỡ, địch tràn ra phía bắc, dân làm gì còn có Tết! Năm tiếp theo, Mậu Tý 1948, xuân đến trong vòng kiểm soát gắt gao của địch. Tết năm Kỷ Sửu 1949, ba tỉnh đã có nhiều làng giành lại được tự do song người dân còn phấp phỏng. Sau mấy năm tháng thật sự khó khăn, phong trào toàn dân kháng chiến phục hồi, bộ đội ta cũng được chỉnh đốn và lớn mạnh lên trông thấy. Xuân Canh Dần, bộ đội về đón tết cùng với dân, yên vui quá rồi, còn mong gì hơn thế!… Với hăm hở của một phóng viên mới vào nghề, tôi hoà nhập hết mình vào cuộc sống quân ngũ, quan sát, lắng nghe, chuyện trò, tâm sự, ngẫm ngợi rồi ghi tất tần tật vào sổ tay. Trích rút mấy trang nhật ký, tôi viết nhanh bài báo ngắn, ghi chép theo lối “thấy đâu kể đó”, nay đọc lại sao mà non nớt thơ ngây, cái tên bài thật thà đến vậy: Tết ở đại đội 150. Những kỷ niệm nhập vào lòng tôi thời trẻ đương nhiên sâu sắc hơn nhiều những gì được viết ra. Cảnh đồng bào đưa lính anh nuôi (thời ấy gọi lính nội vụ) đi “chợ kháng chiến”, chợ họp vội vã mà vẫn tưng bừng dưới bóng hàng mưng cổ thụ (cây lộc vừng) khuất mắt địch. Các bà bán hàng tết không lấy lãi để bộ đội với tiêu chuẩn ngày thường vẫn được vài bữa cơm tươi. Cảnh cán bộ chỉ huy đơn vị xắn tay áo đứng bếp, để cho các anh lính nuôi quân được thảnh thơi ngày cuối năm. Sáng ba mươi tết, đại đội họp toàn thể bầu Hội đồng binh sĩ. Chiều, Hội đồng mới ra mắt đồng đội và dân làng, cũng là dịp anh em liên hoan hát hò múa nhảy thoải mái cho đến khi bữa cơm bày ra đợi lâu đến lạnh tanh mới chịu ngồi xuống chiếc chiếu trải trên nền nhà, vào cuộc. Các bà mẹ ái ngại, thương các con dùng bữa cơm tất niên nguội lạnh, đội mưa ra vườn hái ớt chưa kịp chín chia cho mỗi mâm một chùm ớt xanh. Cảnh các cụ già mang tới biếu mấy gói trà tàu không rõ các cụ mua được ở đâu để anh em nhấp chút thơm trong lúc chờ đón giao thừa. Lại có người tặng bộ đội mấy gói thuốc lá sản xuất tại địa phương, bắt chước kiểu thuốc lá Cotab và Melia hàng ngoại hoá nay hiếm như vàng, và thứ thuốc lá nội ấy lại mang nhãn hiệu vô cùng ý nghĩa: PAX1 - ước vọng muôn đời của dân tộc Việt Nam ta đó. Gần đến nửa đêm tất cả anh em thức dậy đón giao thừa. Tôi ở cùng nhà dân với một tiểu đội. Mùa đông năm ấy rét dữ. Có vài bộ quần áo mặc hết vào người, vẫn cảm thấy như da thịt tê đi, người đét lại. Anh em ngồi tựa sát lưng nhau trò chuyện tâm tình, mi mi tau tau. Lúc xẩm tối, ngay sau bữa cơm chung, đại đội trưởng đã cùng vài cán bộ lặng lẽ đi quan sát địa hình, tìm nơi sẽ ém quân phục kích. Đơn vị được cấp trên giao nhiệm vụ chặn đánh địch trong trường hợp chúng ngang ngược ra khỏi đồn đi phá tết của dân làng. Gần đến nửa đêm, mấy anh em về, bước vào nhà ai nấy đều xuýt xoa kêu lạnh quá rét quá các cậu ơi, đi ngoài trời mấy ngón tay mình cóng tới mức loay hoay không cởi được chiếc khuy quần mà... xả nước! Tại căn nhà nơi ban chỉ huy đại đội đóng, tôi thắp hương lên bàn thờ tưởng nhớ mấy đồng chí vừa hy sinh trong trận chặn đánh địch ngày giáp tết. Vòng lá hoa truy niệm tự tay đồng đội kết, vụng về mà uy nghi. Trên tờ giấy hồng điều quen thuộc ngày tết lại kẻ đậm tin buồn: Vô cùng thương tiếc đồng chí Nguyễn Khai, 22 tuổi, Hy sinh tại cầu Phò Trạch ngày 9/2/1950 . Một cán bộ chỉ cho tôi xem bài báo tường do một chiến sĩ viết, dán cạnh bàn thờ. Bài văn ngây thơ kể chuyện dân làng anh chạy giặc, câu cú lê thê, chính tả nhiều lỗi, cuối bài nắn nót hai chữ Nguyễn Khai. Ôi anh Nguyễn Khai, ngày anh hy sinh 9/ 2 dương lịch, tức 23 tháng chạp ta, là hôm đưa ông Táo về trời. Vậy là anh không kịp nán thêm một tuần để chung vui cùng đồng đội, đồng bào. Tôi chắp tay vái vong linh người chiến sĩ chưa quen mà cổ họng nghẹn ngào… Đấy, tết ở Đại đội 150 của tôi năm Canh Dần 1950 là vậy. Tết 65 năm trước của Trung đoàn 95, của đồng bào Quảng Trị, Thừa Thiên ta năm ấy… Chỉ bốn tháng sau ngày Tết Canh Dần 1950, bộ đội Phân khu Bình Trị Thiên mở chiến dịch Phan Đình Phùng, phục kích các binh đoàn cơ động (Groupements mobiles, viết tắt GM) hành quân trên quốc lộ 1 đoạn Quảng Trị - Quảng Bình, nhằm phối hợp và hỗ trợ chiến trường chính ở Bắc bộ. Sau một trận ta thắng khá đậm trong ngày, diệt khá nhiều địch, bắt được cả chục tù binh Âu Phi, bên ta đương nhiên cũng có tổn thất. Chập tối hôm ấy tôi theo Tiểu đoàn trưởng Nguyễn Tháp đi thăm các chiến sĩ bị thương đang được chăm sóc tại khu ven đồi. Người chiến sĩ hy sinh là đội viên trinh sát của Đại đội 150. Anh tên là Tốn, là một thành viên trong Hội đồng binh sĩ Đại đội được bầu hôm ba mươi tết. Thi hài anh được đặt nằm trên chiếc cáng bằng tre giống hệt cái chõng, có điều thấp hơn nhiều. Ba chiến sĩ đào huyệt. Tiếng cuốc đào thình thịch hối hả trong đêm vừa trùm xuống, hiu hắt chút ánh trăng mờ. Thi hài anh được đặt vào mộ, hai đồng đội cùng xuống theo anh, sửa dáng anh nằm cho ngay ngắn như thể muốn vuốt ve anh. Bỗng một người ngước mắt hỏi nhỏ chỉ huy: “Có được chắp hai tay anh Tốn xếp lên bụng anh không, thưa thủ trưởng?” - “Để làm chi?” - “Để anh nằm như rứa cho khỏe”. Có lẽ chỉ người miền Trung chúng tôi mới thấm thía hết nội hàm tiếng khỏe trong ngôn từ hàng ngày. Đồng đội mong muốn anh Tốn nằm cho khỏe, nằm thoải mái, nhẹ nhàng, yên bình như em bé ngủ trong nôi, nằm cho khỏe trong giấc ngủ không hề vương vấn chuyện đời, lâng lâng thanh thản ra đi sau khi hoàn thành nhiệm vụ… Hai năm sau, 1952, Bộ Chỉ huy Quân đội Viễn chinh Pháp ở Đông Dương mở cuộc hành quân lớn mang tên Camargue với mục tiêu tìm diệt Trung đoàn 95, đơn vị thường xuyên gây cho chúng nhiều tổn thất trong tất cả các chuyến vận tải quân sự theo tuyến đường Bắc Nam, nay là quốc lộ 1, nhất là dải đất hẹp từ Quảng Trị vào Thừa Thiên, đến mức lính lê dương cay cú gọi chặng này là “Con đường Không vui” (La Rue sans Joie) của chúng. Cuộc hành quân ấy của quân Pháp ấy bị ta làm cho thất bại nặng nề. Nhà sử học, Viện sĩ Hàn lâm Pháp Pierre Nora viết: “Kỷ niệm là hoài niệm”. Những kỷ niệm xanh mãi trong lòng của tôi về cái tết 65 năm về trước ở Đại đội 150 nay là nén tâm hương hoài niệm những chiến sĩ, đồng bào hy sinh vì độc lập tự do; là bó hoa ngắt từ trái tim xin được dâng những chứng nhân quý hiếm mà may mắn sao, một số ít cụ được trời cho còn sống tới hôm nay, trong số đó có người bạn cao niên quý mến của tôi, vị đại lão cựu chiến binh Hà Văn Lâu. Tết này, kỷ niệm 40 năm giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà, cụ bước sang tuổi 98 mà vẫn sống khoẻ mạnh, minh mẫn tại miền Nam. PHAN QUANG