Phát triển khoa học và công nghệ Quảng Trị, thực trạng và giải pháp
TS. NGUYỄN BÌNH                                                                Phó Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ Quảng Trị Nhằm nâng cao năng lực khoa học và công nghệ (KH&CN) của tỉnh để làm nền tảng vững chắc và động lực góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đẩy mạnh sản xuất, thúc đẩy tốc độ tăng trưởng kinh tế của tỉnh, đổi mới tổ chức và hoạt động KHCN phù hợp với nền kinh tế thị trường, định hướng XHCN, đáp ứng yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế, phấn đấu xây dựng KHCN Quảng Trị ...

Phát triển khoa học và công nghệ Quảng Trị, thực trạng và giải pháp

TS. NGUYỄN BÌNH Phó Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ Quảng Trị Nhằm nâng cao năng lực khoa học và công nghệ (KH&CN) của tỉnh để làm nền tảng vững chắc và động lực góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đẩy mạnh sản xuất, thúc đẩy tốc độ tăng trưởng kinh tế của tỉnh, đổi mới tổ chức và hoạt động KHCN phù hợp với nền kinh tế thị trường, định hướng XHCN, đáp ứng yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế, phấn đấu xây dựng KHCN Quảng Trị đạt trình độ trung bình tiên tiến so với cả nước vào năm 2020, HĐND tỉnh Quảng Trị khóa V, kỳ họp thứ 20 ngày 20/4/2010 đã ban hành Nghị quyết số 03/2010/NQ-HĐND về phát triển KH&CN 2010- 2014. Trong những năm qua, tranh thủ sự giúp đỡ của các bộ, ngành trung ương, sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Tỉnh ủy, HĐND, UBND; sự hợp tác với các cơ quan khoa học trung ương, các Sở, ban ngành trong tỉnh, năng lực KHCN của tỉnh được nâng cao và hoạt động KHCN đạt được những kết quả nhất định, đóng góp thiết thực cho phát triển KT-XH của tỉnh.

Mô hình trình diễn trồng giống ớt lai F1 TN 378- Ảnh: HVA

Qua 4 năm thực hiện Nghị quyết 03 của HĐND tỉnh, toàn tỉnh đã triển khai thực hiện 149 đề tài, dự án với tổng kinh phí 22.232 triệu đồng, tập trung trên các lĩnh vực tự nhiên, điều tra cơ bản, kỹ thuật và công nghệ, y dược, nông nghiệp, xã hội và nhân văn. Kết quả các đề tài, dự án từ cấp nhà nước, cấp bộ, cấp viện, trường đến cấp địa phương thực hiện đã bước đầu cung cấp những luận cứ khoa học, xác đáng; những cơ sở dữ liệu tin cậy để lãnh đạo tỉnh hoạch định, xây dựng kế hoạch, chính sách trung hạn và dài hạn về phát triển KT-XH địa phương. Tiêu biểu như các đề tài “Đánh giá tổng hợp hiện trạng tự nhiên, KT- XH, xây dựng luận cứ khoa học phát triển các vùng kinh tế động lực của Quảng Trị trên Hành lang kinh tế Đông - Tây”, “Điều tra, đánh giá điều kiện tự nhiên, môi trường, KT- XH vùng cát liên quan đến Khu kinh tế Đông - Nam tỉnh Quảng Trị” hay các dự án thuộc chương trình “Hỗ trợ ứng dụng và chuyển giao tiến bộ KH&CN phục vụ phát triển KT- XH nông thôn và miền núi giai đoạn 2006- 2010 và giai đoạn 2011- 2015”..., các dự án như “Nâng cao nhận thức, kỹ năng về năng suất và chất lượng cho các doanh nghiệp”, “Nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm, hàng hoá trong các doanh nghiệp sản xuất sản phẩm chủ lực của tỉnh”, “Triển khai ứng dụng công nghệ thông tin trong các doanh nghiệp của tỉnh Quảng Trị”... Đối với lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn, các đề tài giải quyết một số vấn đề trong lĩnh vực giáo dục, y tế, hoạt động đoàn thể. Đề tài của các Ban Đảng chủ trì thực hiện tập trung nghiên cứu lịch sử đấu tranh yêu nước và cách mạng, nghiên cứu về cơ sở lý luận và thực tiễn hoạt động của các Ban Đảng về công tác tổ chức lãnh đạo, chỉ đạo phòng chống tham nhũng… Sau 4 năm triển khai thực hiện Nghị quyết 03, đến nay, đã có 5/8 chương trình, 2/2 dự án trọng điểm phục vụ phát triển KT- XH, 4/8 dự án tăng cường tiềm lực khoa học công nghệ, 6/10 chính sách đã và đang triển khai xây dựng, thực hiện. Tuy nhiên, so với yêu cầu thực tiễn đặt ra thì sự phát triển KH&CN của tỉnh vẫn chưa ngang tầm với mục tiêu, nhiệm vụ được giao, trên một số lĩnh vực vẫn còn bộc lộ những bất cập, hạn chế. Hoạt động và hiệu quả của công tác nghiên cứu triển khai KHCN trong từng ngành, từng lĩnh vực, địa phương chưa mang lại sự chuyển dịch mạnh mẽ về cơ cấu kinh tế, chưa đóng góp lớn về chất lượng, nâng cao giá trị sản phẩm và hàng hoá ở địa phương, chưa trở thành nhân tố chủ yếu trong tăng trưởng kinh tế của tỉnh. Nhiều mô hình ứng dụng tiến bộ KHCN đạt hiệu quả cao trong nghiên cứu, thực nghiệm song chậm được nhân rộng và phát huy hiệu quả trong thực tiễn. Cơ sở vật chất cho nghiên cứu ứng dụng và phát triển công nghệ còn ít. Đội ngũ cán bộ KHCN, nhất là cán bộ có trình độ chuyên môn cao còn mỏng, phát triển chậm, việc sử dụng, quản lý còn nặng về hành chính. Nhiệm vụ đổi mới công nghệ trong các doanh nghiệp (DN) chuyển biến chậm. Phần lớn các DN chưa xây dựng được lộ trình đổi mới công nghệ và nâng cao chất lượng sản phẩm. Chưa hình thành được thị trường KHCN trên địa bàn tỉnh. Khả năng cạnh tranh, hội nhập các sản phẩm chủ yếu của tỉnh kém ổn định. Công tác quản lý nhà nước về KHCN tuy đã được cải tiến một bước, song cơ chế để hình thành, xác định nhiệm vụ KHCN trọng điểm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ CNH, HĐH của tỉnh vẫn còn lúng túng. Một số cơ chế, chính sách về tài chính cho KHCN chưa khuyến khích sự tham gia của đội ngũ cán bộ KHKT và giới trí thức vào công tác nghiên cứu, chuyển giao các thành tựu KHCN. Đến nay, số lượng các chương trình, dự án, chính sách đã triển khai thực hiện ước đạt 60,7%. Tiến độ triển khai các chương trình, dự án, chính sách theo Nghị quyết còn chậm, các đơn vị chủ trì chưa tích cực phối hợp với Sở KH&CN để triển khai thực hiện Nghị quyết. Cơ chế, chính sách tổ chức thực hiện các nhóm giải pháp còn bất cập, lúng túng, chưa đáp ứng nhu cầu thực tiễn của cuộc sống và chưa đủ sức thu hút các tổ chức, cá nhân tham gia nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ KH&CN. Nguồn lực đầu tư cho KHCN tỉnh giai đoạn 2010- 2014 còn thấp, khoảng 97,164 tỷ đồng, bình quân mức chi từ ngân sách cho KHCN tỉnh giai đoạn 2010-2014 chỉ đạt 0,59%/ năm, trong khi đó mục tiêu phải đạt 2%/năm. Các đề tài, dự án khi đăng ký, đề xuất chưa xuất phát từ những ý tưởng sáng tạo, giải quyết những vấn đề mới nảy sinh trong cuộc sống, nhu cầu bức thiết của ngành, địa phương mà trên cơ sở sử dụng kết quả đã nghiên cứu, nội dung trùng với một đề tài, dự án hoặc chương trình khác đã thực hiện, hoặc thuộc nhiệm vụ chuyên môn của ngành đã được giao phó... Trên cơ sở đánh giá những thành tựu hạn chế qua 4 năm triển khai thực hiện Nghị quyết 03 của HĐND, trong giai đoạn 2015 - 2020, việc phát triển KH&CN của tỉnh cần bám sát các nội dung định hướng và các nhóm giải pháp chính. Về quan điểm chỉ đạo, KH&CN phải thực sự là quốc sách hàng đầu, là động lực quan trọng để phát triển KT- XH, thúc đẩy CNH, HĐH của tỉnh; phát triển KH&CN phải phục vụ các mục tiêu phát triển KT-XH của tỉnh; chú trọng phát triển tiềm lực KH&CN và đổi mới cơ chế quản lý KH&CN; tăng cường quan hệ liên kết với bên ngoài, đồng thời phát huy năng lực nội sinh, nâng cao hiệu quả sử dụng tiềm lực KH&CN địa phương; đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động KH&CN trên địa bàn tỉnh. Tỉnh tập trung vào 8 nhóm giải pháp cơ bản là: Tuyên truyền, nâng cao nhận thức về KHCN nhằm nâng cao nhận thức cho mọi đối tượng về vị trí, vai trò KHCN, đưa việc ứng dụng KHCN trở thành nhu cầu tự thân và phổ biến trong sản xuất và đời sống xã hội, trong đó chú trọng tuyên truyền về các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về phát triển KHCN; xây dựng và phát triển tiềm lực KHCN bao gồm 3 mảng chính là xây dựng nguồn nhân lực KHCN, các tổ chức KHCN và tiềm lực thông tin KHCN; huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn đầu tư phát triển KHCN, đa dạng hóa, xã hội hóa nguồn lực đầu tư, phấn đấu đạt tỷ lệ từ 1,5%- 2%/năm tổng chi ngân sách địa phương cho KHCN; nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về KHCN ở địa phương; tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức quản lý nhà nước về KHCN phù hợp với đặc thù của tỉnh, bằng cách đổi mới tiếp cận, quản lý KHCN để có thể tham gia, hội nhập với khu vực và thế giới. Đổi mới quản lý về hoạt động tư vấn, phản biện của các hội KHKT, làm tốt chức năng tham mưu về KHCN cho lãnh đạo tỉnh. Ứng dụng, nhân rộng và phát triển trên diện rộng các kết quả KHCN, có chính sách hỗ trợ khuyến khích các DN đổi mới và phát triển công nghệ, hỗ trợ nông dân ứng dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất và đời sống. Phát triển thị trường công nghệ ở địa phương, tạo mọi điều kiện để các tổ chức, cá nhân, DN tham gia chợ công nghệ và thiết bị với trung ương, vùng, khu vực và quốc tế. Định kỳ đăng cai chợ công nghệ và thiết bị cấp tỉnh, tạo sân chơi lành mạnh để tham gia thị trường công nghệ. Mở rộng quan hệ liên kết, hợp tác KHCN với bên ngoài để tăng cường tiềm lực và từng bước hội nhập khu vực, quốc tế. Thúc đẩy phát triển các lĩnh vực tiêu chuẩn, đo lường, chất lượng, sở hữu trí tuệ, an toàn bức xạ hạt nhân, huy động sự tham gia của các đoàn thể, hiệp hội, các tổ chức và cá nhân vào hoạt động năng suất, chất lượng, lấy chất lượng làm chuẩn mực, làm đầu, nâng cao vị thế của DN, xây dựng thương hiệu, xác lập quyền sở hữu công nghiệp... Trên cơ sở nhiều văn bản quy phạm pháp luật quản lý nhà nước về KH&CN đã được ban hành, như Luật KH&CN (sửa đổi) Nghị quyết số 20-NQ/TW của BCHTƯ Đảng (Khóa XI), Quyết định số 418/QĐ-TTg ngày 11/4/2012 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển KH&CN giai đoạn 2011-2020 đã có nhiều đột phá mới, đồng thời cũng tháo gỡ những “điểm nghẽn” trong hoạt động KH&CN ở cấp vĩ mô. Ở Quảng Trị, Chương trình hành động số 64-CTHĐ/TU của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về phát triển KH&CN, Quyết định số 2442/QĐ-UBND ngày 6/12/2013 về Quy hoạch phát triển KH&CN tỉnh Quảng Trị đến năm 2020… và nhiều văn bản quan trọng khác đã có những đánh giá, xác định vị trí KH&CN trong sự nghiệp CNH, HĐH của tỉnh. Vì vậy, việc đánh giá quá trình triển khai thực hiện Nghị quyết 03/2010/NQ-HĐND là hết sức cần thiết, để từ đó có đủ cơ sở khoa học và thực tiễn xây dựng Đề án phát triển KH&CN giai đoạn 2015 - 2020 là một bệ đỡ quan trọng để KH&CN thực sự là quốc sách hàng đầu, là động lực phát triển KT-XH của tỉnh trong giai đoạn mới.