Nhớ về K8
(QT) - Nhân kỷ niệm 45 năm ngày chiến dịch K8, Đài PT-TH Quảng Trị phối hợp với Đài PT-TH Nghệ An thực hiện chương trình cầu truyền hình trực tiếp “Quê chung” nói về chiến dịch K8, K10 ở Vĩnh Linh vào năm 1967. Chương trình không chỉ được đông đảo người dân Vĩnh Linh, Quảng Trị hào hứng đón xem mà còn thu hút sự quan tâm của rất nhiều người từng biết đến Vĩnh Linh tuyến lửa, nơi đầu sóng ngọn gió trong cuộc chiến đấu chống Mỹ cứu nước của dân tộc. Tôi là một cán bộ Vĩnh Linh thời ấy, lại là người có vinh dự góp phần tham gia công tác K8, K10 ngay từ những ngày đầu tiên, nên theo dõi chương trình truyền hình trực tiếp "Quê chung" từ đầu đến cuối. Càng xem, ký ức về những ngày tham gia chiến dịch K8, K10 lại càng trỗi dậy trong tôi. Tôi vào dạy học ở Vĩnh Linh từ năm 1957. Năm 1964, tôi được điều lên công tác chuyên môn ở Phòng phổ thông. Khoảng giữa tháng 11/1966, bác Lê Trọng Từ, Trưởng Ty Giáo dục gọi tôi lên bảo bàn giao công việc chuyên môn lại để theo bác làm công tác khác.
 |
Giao lưu với các nhân chứng lịch sử trong chương trình cầu truyền hình trực tiếp "Quê chung" - Ảnh: Q.H |
Sau đó, tôi cùng hai người là anh Tiến, Trung úy công an và anh Thanh, Thiếu úy công an giao thông (tôi và anh Tiến đều quê Quảng Bình, anh Thanh quê ở Quảng Trị) được mời vào gặp ông Nguyễn Thanh Liêm, Chủ tịch Đặc khu Vĩnh Linh và bà Hoàng Thị Mễ, Phó Chủ tịch Đặc khu Vĩnh Linh. Đến đây chúng tôi mới biết mình được giao nhiệm vụ gì. Theo các đồng chí lãnh đạo, chúng tôi là những người biết rõ về địa bàn, dân tình, tập tục, đường đi lối lại của quê mình nên giao việc khảo sát, lập sơ đồ, kế hoạch “chuyển quân” để triển khai chiến dịch K8. Ngay sau Tết Đinh Hợi (1967), ba chúng tôi đi xe đạp, mang công văn của lãnh đạo Vĩnh Linh ra báo cáo và xin ý kiến của lãnh đạo tỉnh Quảng Bình. Chúng tôi được lãnh đạo tỉnh Quảng Bình cho biết họ đã nắm rõ chủ trương của Trung ương và đang tích cực chuẩn bị mọi thứ cho chiến dịch K8 Vĩnh Linh. Chúng tôi lại quay trở về Vĩnh Linh báo cáo, sau đó ra Quảng Bình xin phép đi khảo sát địa bàn, lập sơ đồ, phương án chính thức, phương án dự bị và kế hoạch để chiến dịch được triển khai theo đúng dự định. Lần này đoàn chúng tôi có thêm hai người nữa là anh Đồi ở Khu đội Vĩnh Linh và thầy giáo Nguyễn Trọng Mại. Ở Quảng Bình, ông Lại Văn Ly, Phó Chủ tịch Ủy ban Hành chính tỉnh Quảng Bình kiêm Trưởng ty Giao thông là Trưởng ban K8. Ông thay mặt lãnh đạo Quảng Bình làm việc trực tiếp với chúng tôi. Chúng tôi cầm giấy giới thiệu của ông chia nhau đi về các huyện Quảng Ninh, Bố Trạch, Quảng Trạch để thâm nhập địa bàn thực tế. Lãnh đạo các huyện nói trên đã tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất cho chúng tôi trong công việc bước đầu này. Lúc này, giặc Mỹ đã bắt đầu sử dụng máy bay B52 rải bom một số nơi trên chiến trường Quảng Trị. Tính chất ác liệt của cuộc chiến ngày càng gia tăng. Ban K8 Vĩnh Linh do bà Hoàng Thị Mễ làm trưởng ban yêu cầu chúng tôi khẩn trương quay ra Quảng Bình hoàn thiện kế hoạch “chuyển quân”, có sơ đồ đường đi, nơi đặt trạm... rồi cử người mang về Vĩnh Linh. Lần này đoàn có thêm bảy người nữa gồm đầy đủ cán bộ các ngành chức năng liên quan đến chiến dịch K8. Khoảng một tháng sau, tỉnh Quảng Bình đã hình thành xong bộ máy K8 từ huyện xuống tận các xã có liên quan, từ trên xuống dưới đều có một cán bộ chuyên trách của Vĩnh Linh làm tham mưu. Đoàn công tác tiền trạm K8 thay nhau ra vào Quảng Bình-Vĩnh Linh nhiều lần nữa, đến đầu tháng 3/1967, mọi việc cơ bản hoàn tất. Ở Vĩnh Linh, công việc chuyển quân cũng đã sẵn sàng. Giữa tháng 3/67, một số đoàn học sinh cấp I thuộc các địa bàn trọng điểm như thị trấn Hồ Xá, các xã: Vĩnh Sơn, Vĩnh Quang, Vĩnh Giang, Vĩnh Tân…lên đường ra Quảng Bình trót lọt. Cứ thế, K8 lần lượt triển khai. Từ Vĩnh Linh đến Võ Xá với đoạn đường khoảng gần 60 cây số, học sinh được di chuyển bằng ô tô, đi bộ 7 cây số đến trạm Phú Vinh (mạn tây Đồng Hới). Từ Phú Vinh theo đường 15 ra Hạ Trạch (bờ nam phà Gianh) khoảng hơn 20 cây số rồi đi tiếp bằng ô tô. Ở trạm này, học sinh chỉ dừng chân mà không lưu trú. Men theo sườn núi, đi bộ ngược lên Tây Trạch qua đò Quảng Minh thì đặt chân đến địa phận huyện Quảng Trạch lúc này đang khá an toàn. Đi bộ 5 cây số, học sinh được trú chân ở trạm Quảng Thủy. Cũng có đoàn đi thẳng thêm 4 cây số để nghỉ lại ở trạm Quảng Tân ngay trên bờ nam sông Gianh. Ở đây có hàng chục chiếc “đò ngang K8” chia làm nhiều đội từ 3-5 giờ sáng chở học sinh qua hai bến đò Quảng Tân và Quảng Hải. Qua khỏi đò, theo đường đồi núi, học sinh đi bộ hơn 7 cây số thì đến lưu trú tại trạm Tam Đa, rồi tập kết về trạm Vân Kiều, ba giờ sáng đi bộ thêm 3 km, đến bến ô tô ở mạn tây Đèo Ngang để đến đất Kỳ Anh- Hà Tĩnh. Từ Kỳ Anh, đoàn đến Thanh Chương rồi theo đường chiến lược Bò Lăn dài hàng trăm cây số đến các tỉnh Ninh Bình, Nam Hà, Thái Bình, Thanh Hóa…bằng xe cơ giới. Tiếp đó, Trường cấp 3 Vĩnh Linh cũng bắt đầu triển khai kế hoạch đưa học sinh ra Tân Kỳ, Nghệ An. Các đoàn xe chuyển hàng vào Vĩnh Linh rồi lại quay ra Phú Vinh, Vân Kiều để chuyển người, dọc đường bị tắc nghẽn và đánh cháy khá nhiều, không đủ để chuyển quân ra Kỳ Anh, học sinh bị ùn lại các trạm nam Đồng Hới quá đông. Trạm Lệ Kỳ, Quảng Ninh bị giặc đánh trúng, một thầy giáo và ba học sinh hy sinh. Mùa mưa sắp đến, tôi được anh Nguyễn Mạnh Tiến thông báo lãnh đạo huyện Vĩnh Linh chỉ thị phải xin ý kiến Ban K8 Quảng Bình và tìm thêm đường “phân thủy” để chuyển quân. Tôi phải rút bớt ở địa bàn Quảng Trạch hai cán bộ, phối hợp với anh Tiến lên mạn Tuyên Hóa (tây Quảng Bình) lập thêm đường mới, đó là đường qua đèo Mồng Gà để ra Hà Tĩnh. Những tháng mùa mưa, học sinh đi theo tuyến đường Mồng Gà hết sức vất vả, khổ sở. Quay trở lại chương trình truyền hình trực tiếp “Quê chung”, trong chương trình này nói về chiến dịch K8 nhưng có xen kẽ với K10. Như thế có làm cho người xem mà đa phần hoặc mới lớn lên sau này hoặc cùng thế hệ nhưng lại chưa tiếp cận với K8 có ý niệm chung chung, không phân định được rõ ràng để ghi sâu ân nghĩa đối với nhiều tỉnh miền Bắc đã hết lòng, hết sức với K8 chăng? Đúng là giữa Tân Kỳ- Nghệ An với Vĩnh Linh- Quảng Trị có mối ân tình sâu nặng nhưng phải làm sao đó để người xem rạch ròi hơn rằng Tân Kỳ- Nghệ An đã tận tình với Vĩnh Linh- Quảng Trị trong kế hoạch nối tiếp K8 là K10 và Trường Cấp 3 Vĩnh Linh. Còn đã nói đến K8 thì tỉnh kề cận, tận tâm tận lực với Vĩnh Linh ngay từ khi chiến dịch còn trong trứng nước là Quảng Bình. Cùng chịu cảnh khói lửa chiến tranh, cũng gian nan thiếu thốn trăm bề nhưng Quảng Bình có thể ví như chiếc cầu lửa bắc ngang cho học sinh K8 Vĩnh Linh vượt qua đoạn đường hiểm nghèo nhất. Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Quảng Bình dồn cả cho chiến dịch K8: những đoàn xe ô tô phục vụ K8, những kho lương thực, thực phẩm dự trữ chiến tranh, những chiếc cầu tre qua ngòi, qua hói bắc vội, những cụm pháo cao xạ, cụm đại liên của bộ đội, dân quân tự vệ trực chiến bảo vệ K8, những lán hầm được gia cố, hoặc làm mới, những chuyến đò ngang “một mất một còn” như bến đò Mẹ Suốt, Tây Trạch, Quảng Tân, Quảng Hải; đêm đêm hàng trăm bếp lửa phải che đậy từ 2, 3 giờ sáng để lo cơm nắm, cơm đùm cho học sinh K8… Tiếp đến là các tỉnh miền Bắc như Ninh Bình, Nam Hà, Thái Bình, Thanh Hóa…Thực hiện chủ trương K8 của Trung ương, các tỉnh trên đã tổ chức mọi thứ hết sức chu đáo, từ nơi ăn chốn ở đến việc nuôi dưỡng, trường lớp để con em Vĩnh Linh không gián đoạn việc học tập một ngày nào. Những học sinh Vĩnh Linh được bà con cưu mang, đùm bọc như con đẻ trong suốt 6, 7 năm trời dần nguôi ngoai nỗi nhớ quê hương, trưởng thành, chắp cánh tung bay để đến hôm nay, nhiều người trong số họ thành đạt, đang phục vụ hết mình cho quê hương. Ngay từ sau ngày 8/2/1965, Vĩnh Linh trở thành trận tuyến đối đầu vô cùng ác liệt với Mỹ- ngụy rồi. Bắt đầu những năm tháng giặc Mỹ vừa gây ra cuộc chiến tranh phá hoại ở miền Bắc thì trên đất Vĩnh Linh không ngày nào không có tiếng pháo bom, người chết, phố xá, làng mạc hoang tàn. Sau thất bại thảm hại của cuộc phản công chiến lược mùa khô năm 1965-1966, giặc Mỹ ráo riết sửa soạn cho cuộc phản công mùa khô lần thứ2. Từ tháng 12/1965-8/1966, với 18 vạn quân xâm lược, Mỹ đã tăng vọt số quân lên tới 38 vạn với hàng triệu tấn phương tiện chiến tranh hiện đại. Miền đông Nam bộ và Liên khu Năm là hướng chiến trường chính giặc Mỹ tập trung đánh phá. Để dàn mỏng chúng ra, giam chân chúng lại, Trung ương quyết định mở Mặt trận Đường 9 – Bắc Quảng Trị nhằm đánh tiêu hao, tiêu diệt. Như thế, chiến trường Quảng Trị cực kỳ ác liệt. Đất lửa Vĩnh Linh là nơi hứng chịu bom đạn nhiều nhất, bởi đây là địa bàn hậu thuẫn, là bàn đạp tấn công trực diện mãnh liệt nhất vào quân giặc. Theo đề nghị của lãnh đạo Vĩnh Linh, Trung ương quyết định cần đưa ra khỏi khu vực khói lửa toàn bộ học sinh từ cấp I đến cấp III, người già và những bà con không giao nhiệm vụ chiến đấu. Cuộc di tản 3 vạn người dân đi K8, K10 biết rằng sẽ vô cùng gian lao, nguy hiểm nhưng dù có phải hy sinh mất một phần mười (như các đồng chí lãnh đạo Vĩnh Linh xác định) thì cũng phải tiến hành. Đây là một chiến dịch, một mắt xích dù nhỏ nhưng nằm trong hệ thống mắt xích trong bước chuẩn bị đầy đủ điều kiện để đánh thắng giặc Mỹ trên cả hai chiến trường Nam, Bắc… Chương trình cầu truyền hình trực tiếp đặt tên “Quê chung” là đúng nghĩa. Và K8, K10 tuy đã trở thành dĩ vãng nhưng lòng tôi vẫn không bao giờ phai nhạt một mối tình chung. NGUYỄN TRUNG HỮU