Cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền hoạt động năng suất và chất lượng
(QT) - Chương trình quốc gia “Nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm, hàng hóa của doanh nghiệp Việt Nam đến năm 2020” (gọi tắt là chương trình 712) đã được Thủ tướng Chính phủ chính thức phê duyệt tại Quyết định số 712/2010/QĐ-TTg. Ở Quảng Trị, chương trình đã được khởi động từ năn 2011. Sau 3 năm triển khai thực hiện, các dự án thuộc chương trình đã đạt được những kết quả nhất định. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn nhiều hạn chế, trong đó công tác tuyên truyền chưa đạt hiệu quả như mong ...

Cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền hoạt động năng suất và chất lượng

(QT) - Chương trình quốc gia “Nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm, hàng hóa của doanh nghiệp Việt Nam đến năm 2020” (gọi tắt là chương trình 712) đã được Thủ tướng Chính phủ chính thức phê duyệt tại Quyết định số 712/2010/QĐ-TTg. Ở Quảng Trị, chương trình đã được khởi động từ năn 2011. Sau 3 năm triển khai thực hiện, các dự án thuộc chương trình đã đạt được những kết quả nhất định. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn nhiều hạn chế, trong đó công tác tuyên truyền chưa đạt hiệu quả như mong muốn. Năng suất là yếu tố then chốt quyết định khả năng cạnh tranh và sự tồn tại lâu dài của một doanh nghiệp (DN), là cơ sở để nâng cao thu nhập, tạo môi trường và điều kiện làm việc tốt cho người lao động. Đối với quốc gia, năng suất giúp nâng cao chất lượng tăng trưởng nền kinh tế thông qua sử dụng một cách hiệu quả các yếu tố đầu vào là “vốn” và “lao động” để gia tăng kết quả đầu ra. Mục tiêu cuối cùng của năng suất là nâng cao chất lượng cuộc sống và đảm bảo một xã hội tốt đẹp hơn. Vai trò của năng suất đã thực sự được khẳng định khi nền kinh tế thế giới đi vào khủng hoảng. Các nước phát triển đã định hướng cách thức phục hồi nền kinh tế nhanh nhất là thông qua phát triển công nghệ và cải tiến năng suất. Phong trào thúc đẩy hoạt động năng suất và chất lượng được nhiều quốc gia như Nhật Bản, Singapore, Malaysia hình thành và phát triển từ rất sớm đã góp phần quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế của các quốc gia này.

Họp Ban điều hành chương trình “Nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm, hàng hoá của doanh nghiệp tỉnh Quảng Trị”
Tại Quảng Trị, trong khuôn khổ chương trình 712 có 4 dự án được triển khai thực hiện, đến nay đã đạt được những kết quả bước đầu. Dự án “Nâng cao nhận thức, kỹ năng về năng suất và chất lượng cho các doanh nghiệp” đã khảo sát nhu cầu, nâng cao kiến thức quản lý của các DN trên địa bàn Quảng Trị; xây dựng đội ngũ giảng viên, chuyên gia hệ thống quản lý (HTQL), công cụ, kỹ năng quản lý về năng suất chất lượng (NSCL) với 2 chuyên gia tham gia các chương trình đào tạo quốc gia về NSCL; tuyên truyền phổ biến kiến thức NSCL cho các DN... Dự án “Nâng cao năng suất và chất lượng trong các doanh nghiệp sản xuất sản phẩm chủ lực của tỉnh” đã hỗ trợ tư vấn cho các DN áp dụng HTQL chất lượng; công cụ cải tiến NSCL; đánh giá sự phù hợp tiêu chuẩn kỹ thuật (TCKT) cho 6 DN sản xuất cà phê nhân và cao su, trình độ công nghệ trong cao su và cà phê, năng suất, các yếu tố tổng hợp của tỉnh; đào tạo chuyên gia về NSCL cho cán bộ Chi cục Tiêu chuẩn, đo lường, chất lượng tỉnh; tổ chức 2 lớp đào tạo về NSCL cho các huyện, thị xã, thành phố và lớp HTQL năng lượng ISO 50001... Dự án “Triển khai ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) trong các doanh nghiệp của tỉnh Quảng Trị”, đã tư vấn, hỗ trợ kết nối mạng nội bộ LAN cho 2 DN; xây dựng hệ thống tuyên truyền, phổ biến an toàn, an ninh thông tin theo tiêu chuẩn ISO/IEC 270001:2005; tích hợp trên trang Năng suất chất lượng hội nhập Quảng Trị; đào tạo nâng cao kỹ năng ứng dụng CNTT cho các DN; nâng cấp, duy trì website năng suất chất lượng hội nhập Quảng Trị; hỗ trợ xây dựng website cho 2 DN; xây dựng 1 mô hình DN mẫu về ứng dụng CNTT; trình cơ quan có thẩm quyền ban hành Quy định về tiêu chí đánh giá mức độ sẵn sàng cho ứng dụng và phát triển CNTT trong DN Quảng Trị... Dự án “Xây dựng tổ chức đánh giá sự phù hợp được công nhận theo TCVN 7475:2004 (ISO/IEC Guide 65:1996) và TCVN ISO/IEC 17021:2008 đáp ứng yêu cầu được công nhận và chỉ định chứng nhận sản phẩm phù hợp tiêu chuẩn, phù hợp quy chuẩn kỹ thuật; đánh giá và chứng nhận hệ thống quản lý chất lượng”, đã áp dụng HTQL mới ban hành, phổ biến thực hiện; áp dụng các văn bản vào thực tế, sửa đổi các phần chưa phù hợp để hoàn thiện hệ thống các quy trình, thủ tục; thống nhất hoá hệ thống văn bản đối với quá trình quản lý các hoạt động của đơn vị, soát xét và phê duyệt áp dụng; lập kế hoạch và tiến hành đánh giá nội bộ nhằm vận hành, duy trì và hoàn thiện HTQL chất lượng của đơn vị; áp dụng các hành động khắc phục, cải tiến nếu trong quá trình áp dụng/đánh giá nội bộ phát hiện các vấn đề không phù hợp, sai sót hoặc chưa hoàn thiện; đánh giá xem xét hệ thống với mục đích khẳng định sự hoàn thiện và sẵn sàng của HTQL chất lượng trước đánh giá chứng nhận; khắc phục, cải tiến sau đánh giá xem xét hệ thống; tham gia thực hành đánh giá chất lượng sản phẩm phù hợp tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật 2 đợt tại các DN ở thành phố Hồ Chí Minh và Bình Dương; đánh giá chuyên gia và công nhận chuyên gia; lập thủ tục đăng ký Tổng cục Tiêu chuẩn, đo lường, chất lượng xin chỉ định tổ chức chứng nhận sản phẩm và đăng ký công nhận với tổ chức đánh giá công nhận... Từ những kết quả trên đã làm thay đổi nhận thức của một bộ phận DN về lợi ích của việc áp dụng các công cụ cải tiến NSCL. Điều đó có nghĩa là bản thân DN thực sự muốn thay đổi, muốn cải tiến để tăng khả năng cạnh tranh, đồng nghĩa việc họ muốn sản phẩm của mình phục vụ khách hàng tốt hơn, hướng đến lợi ích của khách hàng ngày càng nhiều hơn. Đó là thành công lớn nhất mà các dự án tạo ra ở giai đoạn đầu. Tuy nhiên, vẫn còn một số DN chưa mặn mà trong việc nâng cao nhận thức về chất lượng. Đây cũng chính là những tồn tại, hạn chế của dự án cần được quan tâm, khắc phục trong thời gian tới. Một trong những nguyên nhân của tồn tại, hạn chế là do công tác tuyên truyền chưa phát huy hết hiệu quả như mong muốn. Rất nhiều DN chưa mặn mà tham gia dự án không phải vì họ không có vốn đối ứng mà do họ không tiếp cận được thông tin, cũng có DN tiếp cận được thông tin nhưng họ còn nghi ngờ những kết quả mà dự án đang triển khai. Vì vậy, trong thời gian tới, để các dự án triển khai đạt hiệu quả cao hơn, cần giải quyết tốt hai vấn đề. Đó là cần có biện pháp quy tụ các chuyên gia giỏi, tâm huyết, bởi các chuyên gia đóng vai trò quan trọng trong việc tư vấn, nâng cao nhận thức và tạo lòng tin cho DN trong áp dụng các công cụ cải tiến, nâng cao nhận thức. Cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền về chương trình 712 nói chung và dự án nâng cao NSCL nói riêng, nhằm giúp các DN tiếp cận được đầy đủ các thông tin và lợi ích mà chương trình, dự án mang lại. Công tác này phải thực hiện đồng bộ trên các phương tiện thông tin đại chúng, đồng thời phải xác định làm thật tốt các mô hình điểm, trên cơ sở đó nhân rộng các mô hình, tạo ra niềm tin và sức lan tỏa trong DN. Đây là công tác lâu dài, bền bỉ, bởi thay đổi nhận thức của DN, đưa các thông tin thấm nhuần vào DN và trong cả đời sống xã hội là cả một quá trình cần thực hiện chuyên nghiệp và bài bản. Công tác này cũng cần có sự phối hợp của các ban, ngành liên quan và sự chủ động thay đổi, cải tiến để tiếp nhận của DN. Công tác tuyên truyền sẽ giúp các DN nhận ra rằng, càng trong bối cảnh kinh tế suy thoái, cần phải quan tâm đến vấn đề nâng cao NSCL, nếu không DN càng rơi vào khủng khoảng và không tìm ra lối đi. Áp dụng thành công các công cụ cải tiến chính là đã tạo ra thuận lợi cho DN, giúp cho DN cắt giảm được các chi phí không cần thiết, giảm giá thành sản phẩm, đem lại sự hài lòng trực tiếp cho người sử dụng. Bài, ảnh: TRẦN ANH THƯ