Học tập tư duy và phong cách báo chí Hồ Chí Minh
QTO - Tư duy và phong cách báo chí Hồ Chí Minh cụ thể hoá tư tưởng của Người về văn hóa: “Văn hóa là một mặt cơ bản của xã hội”, “Văn hóa là một mặt trận”, “Văn hóa mới kết hợp hài hòa, đúng đắn truyền thống và hiện đại, dân tộc và quốc tế”. Báo chí vừa là bộ phận cấu thành văn hóa, vừa là phương tiện truyền bá, xây dựng, thực thi văn hóa trong cuộc sống hằng ngày. Đối với những người làm báo, việc học tập và noi gương Bác Hồ nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ của mình là cuộc phấn đấu không ngưng nghỉ (1).

Học tập tư duy và phong cách báo chí Hồ Chí Minh

Tư duy và phong cách báo chí Hồ Chí Minh cụ thể hoá tư tưởng của Người về văn hóa: “Văn hóa là một mặt cơ bản của xã hội”, “Văn hóa là một mặt trận”, “Văn hóa mới kết hợp hài hòa, đúng đắn truyền thống và hiện đại, dân tộc và quốc tế”. Báo chí vừa là bộ phận cấu thành văn hóa, vừa là phương tiện truyền bá, xây dựng, thực thi văn hóa trong cuộc sống hằng ngày. Đối với những người làm báo, việc học tập và noi gương Bác Hồ nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ của mình là cuộc phấn đấu không ngưng nghỉ (1).

Làng Sen quê Bác -Ảnh: TL

Nguyễn Ái Quốc, nhà văn hóa lớn

Từ những ngày đầu sống ở nước ngoài, từng qua lại nhiều nước phát triển ở các châu lục, Bác Hồ sớm nhận ra vai trò và tác động to lớn của báo chí trong đấu tranh xã hội bất kỳ dưới chế độ chính trị nào. Trong quá trình tìm đường giải phóng dân tộc, giành độc lập, tự do cho Tổ quốc, Người tiếp cận các tác phẩm của Lênin và tâm đắc câu vị lãnh tụ phát biểu khá lâu trước ngày Cách mạng Tháng Mười Nga thành công: “Cái mà chúng ta nhất thiết phải có lúc này là một tờ báo chính trị. Trong thời đại ngày nay, không có tờ báo chính trị thì không thể có phong trào gọi là chính trị... Không có tờ báo thì không thể tiến hành có hệ thống cuộc tuyên truyền, cổ động có nguyên tắc và toàn diện...”.(2)

Tư tưởng ấy là động lực thôi thúc Hồ Chí Minh trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng tìm cách thành lập cho bằng được tờ báo của mình với tôn chỉ phục vụ sự nghiệp của dân tộc. Nó động viên Người không ngừng phấn đấu để trở thành nhà báo lớn Việt Nam trong mọi thời đại, một cây bút ngang tầm những tên tuổi nổi bật về văn hoá và báo chí trên toàn thế giới.

Sau những năm bôn ba nhiều nơi, Nguyễn Ái Quốc đến Vương quốc Anh và sống ở đó một thời gian với mục đích tìm hiểu, học tập những cái hay của một nền văn hóa tiêu biểu ở Châu Âu, nơi ra đời sớm nhất chế độ nghị viện và cũng là một trong những vùng có mấy tờ báo đầu tiên của nhân loại.

Cuối năm 1917 Bác Hồ đến Pháp và dừng chân lại sinh sống tại Paris. Đấy là thời điểm Bác bắt đầu đặt chân vào nghề báo. Sau những bước chập chững học nghề, Người viết những bài báo đầu tiên bằng tiếng Pháp hầu hết đăng trên các báo cánh tả của chính trường Pháp.

Chỉ sau ba năm sau, được sự ủng hộ và giúp đỡ của các chí sĩ Việt Nam tại Pháp và sự hợp tác của bạn hữu quốc tế, Người chủ trì việc xuất bản báo Le Paria (Người cùng khổ), số đầu ra ngày 1/4/1922. Nguyễn Ái Quốc vừa là chủ nhiệm, chủ bút, quản lý, vừa là người biên tập, thực hiện. Jean Lacouture (1920-2015), nhà viết tiểu truyện nổi tiếng ở Pháp, tác giả đầu tiên là người nước ngoài viết tiểu sử Hồ Chí Minh khi Bác Hồ còn tại thế (1967) nhận định: “Sự đóng góp của Nguyễn Ái Quốc cho tờ Le Paria là rất lớn. Ngày nay đọc lại các bài của ông đăng trên báo ấy ta vẫn thấy vô cùng hứng thú... Văn phong của Nguyễn là văn phong một nhà luận chiến tài ba”(3). Song song với việc chủ trì tờ Le Paria, Nguyễn Ái Quốc chuẩn bị làm tờ báo tiếng Việt dành cho người Việt Nam sinh sống tại Pháp, Báo Việt Nam hồn, trước khi bí mật lên đường sang Liên Xô.

Những ngày sinh sống tại Paris, dưới sự giám sát gay gắt của mật thám Pháp, Người cộng tác với một số tờ báo có thanh thế và đông độc giả tại nước Pháp hồi bấy giờ, như L’Humanité (Nhân đạo), La Vie ouvrière (Đời sống thợ thuyền), Le Populaire (Người bình dân)... Sang Liên Xô, người cộng tác với một số báo xô viết qua tiếng Nga. Thời gian làm việc tại Đức, Người viết báo tiếng Đức. Về Trung Quốc, Người là biên tập viên tờ Cứu vong nhật báo, đồng thời viết bài đều đều cho mấy tờ báo khác bằng tiếng Anh.

Đặc biệt Người sáng lập báo Thanh niên, số 1 ra ngày 21/6/1925, khơi dòng báo chí cách mạng Việt Nam, chuẩn bị về lý luận, chính trị, tư tưởng và tổ chức cho sự ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam. Khi từ Trung Quốc, Người phải tạm lánh sang Thái Lan do Tưởng Giới Thạch trở mặt, phá vỡ sự cộng tác giữa Trung Hoa Quốc dân đảng với Đảng Cộng sản Trung Quốc và trong thời gian hoạt động tại Thái Lan, Người cho ra mấy tờ báo tiếng Việt như Thân ái, Đồng thanh, tập hợp, đoàn kết Việt kiều sinh sống tại đất nước triệu voi cùng hướng về Tổ quốc.

Năm 1943, vừa đặt chân về đất tổ sau nhiều năm bôn ba tại các nước ngoài, Nguyễn Ái Quốc (từ nay dùng tên Hồ Chí Minh) đã sáng lập báo Việt Nam độc lập tại Việt Bắc. Mục đích của báo Việt Nam độc lập là “Kêu gọi Nhân dân trẻ với già/Đoàn kết một lòng như khối sắt/Để cùng nhau cứu nước Nam ta”. Những ngày toàn dân ta sôi nổi tiến hành Cách mạng Tháng Tám 1945, trên đường từ Việt Bắc về thủ đô Hà Nội đọc Tuyên ngôn độc lập, Người quyết định và chỉ đạo việc cho ra đời Đài phát thanh quốc gia Tiếng nói Việt Nam, tiếp sau đó Hãng thông tấn quốc gia Thông tấn xã Việt Nam kịp thời thông tin ra thế giới toàn văn Tuyên ngôn độc lập 1945.

Với tư cách nhà báo, Hồ Chí Minh sử dụng điêu luyện cây bút báo chí, đồng thời viết kịch nói, truyện ngắn, tùy bút văn học, vẽ ký họa, làm thơ... Bác Hồ không coi mình là nhà báo chuyên nghiệp mà chỉ là “người có nhiều duyên nợ với báo chí”. Trên thực tế, Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh dưới hàng trăm bút danh khác nhau(4), là một nhà lý luận báo chí, một cây bút đa dạng, sắc bén, tài hoa, với hàng loạt tác phẩm chuẩn xác về nội dung, hùng hồn về lý luận, mẫu mực trong cách sử dụng ngôn từ phù hợp với đối tượng của từng tờ báo. Lúc nào cây bút Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh cũng có sức đi sâu vào lòng người, thức tỉnh bạn đọc, khiến quân thù khiếp sợ.

Bác Hồ nói Người không có chủ ý trở thành nhà lý luận về báo chí, truyền thông, song trên thực tế những phát biểu của Người về văn hóa, thông tin, báo chí là một hệ quan điểm mang tính kinh điển về báo chí Việt Nam vào những giai đoạn khác nhau. Không riêng những người làm báo, các nhà nghiên cứu trên các lĩnh vực tư tưởng, văn hóa, thông tin, giáo dục, đối ngoại… đều có thể học tập, tham khảo tư tưởng báo chí của Người.

Học tập và làm theo tư duy, phong cách báo chí Hồ Chí Minh

Tư tưởng báo chí Hồ Chí Minh bao gồm nhiều lĩnh vực. Tư duy của Người về báo chí cách mạng Việt Nam trùng hợp ý kiến các nhà tư tưởng lớn như Các Mác, F. Ăngghen, V.I. Lênin. Nhiều lần Hồ Chí Minh gọi báo chí là “vũ khí sắc bén của cách mạng”, là “đội quân xung kích trong công tác tư tưởng...” Chức năng của báo chí là “tuyên truyền, huấn luyện, giáo dục, tổ chức dân chúng...” qua các phương tiện thông tin và bằng thủ pháp nghề nghiệp.

Bác Hồ coi trọng chức năng giáo dục của báo chí, đặc biệt sau ngày tổng khởi nghĩa thành công, Việt Nam trở thành một nước độc lập, tự do, dân chủ. Trên các báo, sách của ta sau ngày hòa bình lập lại trên nửa nước năm 1954, thường xuyên xuất hiện lời kêu gọi Nhân dân “Học tập và làm theo báo Đảng” in ở nơi dễ bắt mắt nhất, kèm theo câu “Mong bạn đọc góp ý, phê bình”.

Tôn chỉ của báo chí Việt Nam theo Chủ tịch Hồ Chí Minh trước sau vẫn là phục vụ sự nghiệp “kháng chiến và kiến quốc, đoàn kết toàn dân, thi đua yêu nước; xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thống nhất nước nhà, bảo vệ hoà bình thế giới...”. Hồ Chí Minh nhấn mạnh, báo chí phải “đấu tranh cho tự do, chân lý, cho tương lai tươi sáng của loài người...”. Trong tư duy báo chí của Người, đối tượng của báo chí, truyền thông không bó hẹp trong một số tầng lớp vốn có điều kiện dễ dàng tiếp cận thông tin, mà báo chí phải hướng về “đại đa số dân chúng”, vì đông đảo Nhân dân, bao gồm và đặc biệt là những người học vấn không cao lắm.

Tính chất báo chí, vẫn theo lời Bác Hồ, trước hết là “tính quần chúng và tinh thần chiến đấu...”. Vào khoảng thời gian gọi là thời bao cấp, khi hệ thống báo chí nước nhà được Đảng và Nhà nước chăm lo cho mọi thứ, từ nhu cầu về tài chính, cơ sở hạ tầng đến các điều kiện tác nghiệp, Người đã khẳng định: “Báo chí cũng là một ngành kinh tế”. Báo chí không chỉ có trách nhiệm phục vụ các nhiệm vụ xây dựng, phát triển kinh tế mà báo chí còn phải lo về mặt kinh tế cho hoạt động của chính mình.

Quan điểm báo chí Hồ Chí Minh coi trọng “tự do tư tưởng”. Người viết: “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tư tưởng phải được tự do... Đối với mọi vấn đề, mọi người tự do bày tỏ ý kiến của mình, góp phần tìm ra chân lý... Khi mọi người đã phát biểu ý kiến, đã tìm ra chân lý, lúc đó quyền tự do tư tưởng hoá ra quyền phục tùng chân lý”. Vậy thì chân lý ở đâu, chân lý là gì, chân lý thể hiện trong cuộc sống qua những mặt nào? Người giải đáp: “Chân lý là cái gì có lợi cho Tổ quốc, cho Nhân dân”.

Về phong cách báo chí theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, báo chí, truyền thông phải “gần gũi quần chúng”. Nhà báo cần tâm niệm suốt đời: “Vì ai mình viết? Viết cho ai? Viết để làm gì?”. Văn phong báo chí phải “giản đơn, dễ hiểu, phổ thông, hoạt bát...” nhưng không thông tục. Bác Hồ dặn bài báo phải đúng đồng thời phải hay, “viết có hay mới có đông người đọc”. Báo chí cần phấn đấu để khỏi bị người đọc chê là “báo lá cải”. Bác Hồ căn dặn nhà báo phải cố gắng “viết cho văn chương, cho người đọc thấy hay, thấy văn chương người ta mới thích đọc...”.

Báo chí, trong bất kỳ bối cảnh nào, cũng vẫn là “diễn đàn của Nhân dân”. Sản phẩm báo chí mang dấu ấn cá nhân. Nhưng để làm ra được một tờ báo là công sức, tâm huyết của cả một tập thể. Tính tập thể của nghề báo không đơn thuần thể hiện về nội dung, mà còn ở lối làm việc hài hòa của cả tòa báo, bao gồm “người viết, người in, người sửa bài, người phát hành... ăn khớp với nhau...”. Cùng với tính tập thể, Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cao vai trò cá nhân của mọi người làm báo. Người khuyến khích người làm báo nên biết vận dụng thế mạnh của mình, phát huy biệt tài của mình trong tác nghiệp.

Báo chí và người làm báo

“Nói đến báo chí, trước hết phải nói đến những người làm báo”. Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm việc xây dựng đội ngũ những người làm báo và tổ chức chính trị, xã hội, nghề nghiệp của họ, Hội Nhà báo Việt Nam. Người nhiều lần nhấn mạnh vai trò “chiến sĩ” của người làm báo, đòi hỏi nhà báo phải kiên định lập trường, giữ vững quan điểm, không ngừng nâng cao trình độ. Nhà báo phải là người chí công vô tư, có hiểu biết rộng và nhất là có cái tâm trong sáng. Nhà báo cần thường xuyên nâng cao đạo đức nghề nghiệp. Hễ có dịp gặp và chuyện trò với các nhà báo là Người nhắc đến chuyện này.

Bản thân Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương về đạo đức báo chí. Người là người làm báo với ý nghĩa cao cả nhất của danh xưng ấy. Khi cầm trên tay cây bút hay gõ máy chữ viết nên bài báo, mẩu tin, Người không quan tâm đến việc đề cao tên tuổi hay vì lợi ích riêng. Người khuyên các nhà báo chớ nên nghĩ mình viết báo nhằm “lưu danh thiên cổ”. Suốt cả cuộc đời cầm bút, Người luôn hướng về cái đích là mang trí tuệ, tâm huyết và tài năng của mình phục vụ sự nghiệp cách mạng, phục vụ Nhân dân, vì lợi ích của nhân loại.

Để đạt được đỉnh cao trong sáng ấy, trở thành một nhà báo lớn, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã kiên trì học tập, “khổ luyện suốt đời”. Khi mới đặt chân đến Pháp, do nhu cầu đấu tranh vì độc lập, tự do của đất nước, nhận thấy sự cần thiết trở thành một nhà báo viết tiếng Pháp giỏi, Nguyễn Ái Quốc khởi đầu bằng cách tập viết những mẩu tin ngắn, “mỗi tin chỉ có năm ba dòng”. Khi mẩu tin hoặc bài viết ngắn được đăng lên báo, Người mang ra so sánh bản thảo mình viết với bản đã được tòa soạn biên tập, từ đó tìm hiểu xem các bậc đàn anh đã chỉnh sửa ở những chỗ nào.

Nhờ thông qua cách vừa làm vừa học, sau chưa đến hai năm tính từ ngày đặt chân lên đất Pháp, Nguyễn Ái Quốc đã là tác giả nhiều bài chính luận, tiểu phẩm, điều tra... có giá trị về nội dung, hấp dẫn trong cách thể hiện, làm kinh ngạc nhiều nhà trí thức Pháp có dịp đọc Người. Cho dù Bác Hồ nhận mình chỉ là “người có nhiều duyên nợ với báo chí”, cả cuộc đời của Người, từ những ngày phải trốn tránh kẻ thù cho đến khi đảm đương nhiều trọng trách quốc gia, thời gian luôn eo hẹp, Người không rời cây bút. Tháng năm 1955 có hai ngày đầu năm, tết dương lịch và tết Nguyên đán Ất Mùi. Trong khoảng thời gian ấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh dù bề bộn đại sự quốc gia, đã viết cho Báo Nhân Dân tới 52 bài báo (5) .

Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên dành cho báo chí và những người làm báo mối quan tâm và lòng ưu ái. Đó là một đức tính, một phong cách xử thế không phải nhà lãnh đạo kiệt xuất nào trên thế giới ai cũng có thể có.

Phan Quang

(1) Tất cả những câu của Hồ Chí Minh đóng trong ngoặc kép đều trích dẫn từ lời Bác Hồ, Hồ Chí Minh toàn tập, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

(2) Lênin, Làm gì?-NXB Sự thật, Hà Nội

(3) Jean Lacouture, Hồ Chí Minh, NXB Le Seuil, Paris 1967.

(4) Bảo tàng Hồ Chí Minh sưu tầm được 174 tên gọi, bí danh bút danh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2015.

(5) Tất cả các sự kiện đều được ghi chép và tất cả các bài báo của Bác Hồ đều được in lại trong bộ Hồ Chí Minh toàn tập.