Phát triển gạch không nung, nhiệm vụ “nóng” và thời cơ “vàng”
(QT) - Trong lịch sử, gạch nung- một trong những loại vật liệu xây dựng cổ xưa nhất, đã song hành cùng sự phát triển loài người, góp phần tạo nên những kỳ quan sống mãi với thời gian. Tuy nhiên, dường như sự phát triển của loại vật liệu này đã đến điểm giới hạn khi bộc lộ những nhược điểm khó khắc phục trong một thế giới hướng đến “tăng trưởng xanh”, với mục tiêu ưu tiên là bảo vệ môi trường, gìn giữ tài nguyên. Nhược điểm cơ bản của gạch nung là: tiêu tốn tài nguyên đất sét ruộng có giá trị ...

Phát triển gạch không nung, nhiệm vụ "nóng" và thời cơ "vàng"

(QT) - Trong lịch sử, gạch nung- một trong những loại vật liệu xây dựng cổ xưa nhất, đã song hành cùng sự phát triển loài người, góp phần tạo nên những kỳ quan sống mãi với thời gian. Tuy nhiên, dường như sự phát triển của loại vật liệu này đã đến điểm giới hạn khi bộc lộ những nhược điểm khó khắc phục trong một thế giới hướng đến “tăng trưởng xanh”, với mục tiêu ưu tiên là bảo vệ môi trường, gìn giữ tài nguyên. Nhược điểm cơ bản của gạch nung là: tiêu tốn tài nguyên đất sét ruộng có giá trị canh tác nông nghiệp cao; tiêu tốn than là tài nguyên không thể tái tạo; khả năng cách nhiệt không cao dẫn tới tiêu tốn nhiều năng lượng để làm mát và sưởi ấm; kích thước viên gạch nhỏ nên khi xây tốn vữa, tốn công và tốn thời gian. Chính vì vậy, hiện nay gạch xây không nung đã được phát triển rộng rãi khắp thế giới, ở một số nước phát triển đã thay thế gần như hoàn toàn cho gạch nung. Ở Việt Nam, đẩy mạnh sản xuất và sử dụng gạch không nung cũng là một chủ trương lớn của Chính phủ trong thời gian gần đây, dù kết quả vẫn còn hạn chế . Tại Quảng Trị, hiện có 7 cơ sở sản xuất gạch tunel, với lượng tiêu thụ khoảng 130 triệu viên/ năm. Dự báo trong 10 năm tới, tổng lượng gạch tiêu thụ khoảng 2 tỷ viên, tiêu tốn 3 triệu m 3 đất sét ruộng, tương đương 150 ha ruộng (giả định chiều sâu khai thác 2 m) và 240.000 tấn than. Rõ ràng, từ góc độ tiết kiệm tài nguyên, bảo vệ môi trường, đảm bảo an ninh lương thực, việc đẩy mạnh sản xuất gạch không nung là giải pháp hợp lý và hiệu quả. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau, các nhà sản xuất vật liệu xây dựng cũng như các chủ đầu tư và người dân nhìn chung vẫn đang tiếp cận gạch xây không nung với nhiều e ngại.

Xây dựng công trình bằng gạch không nung - Ảnh: TL

Thời gian gần đây, Chính phủ và Bộ Xây dựng đã có các văn bản, quy định lộ trình sản xuất và sử dụng vật liệu xây không nung. Ngày 28/4/2010, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 567/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình phát triển vật liệu xây không nung đến năm 2020. Theo văn bản này, tổng sản lượng gạch không nung của vùng Bắc Trung bộ và duyên hải miền Trung đến năm 2015 là 1,4÷1,86 tỷ viên, đến 2020 là 3÷4 tỷ viên. Đặc biệt, Thông tư số 09/2012/TT-BXD ngày 28/11/2012 của Bộ Xây dựng quy định: (1) Đối với các công trình xây dựng đầu tư bằng nguồn vốn nhà nước, tại các đô thị loại 3 trở lên phải sử dụng 100% vật liệu xây không nung kể từ ngày 15/1/2013, tại các khu vực còn lại phải sử dụng tối thiểu 50% vật liệu xây không nung kể từ ngày 15/1/2013, sau năm 2015 phải sử dụng 100%. (2) Đối với các công trình xây dựng từ 9 tầng trở lên không phân biệt nguồn vốn, từ nay đến năm 2015 phải sử dụng tối thiểu 30% và sau năm 2015 phải sử dụng tối thiểu 50% vật liệu xây không nung loại nhẹ trong tổng số vật liệu xây (tính theo thể tích khối xây). Như vậy, kể từ 15/1/2013, các dự án đầu tư bằng nguồn vốn nhà nước tại thành phố Đông Hà phải sử dụng 100% vật liệu xây không nung và sau 2015, các dự án đầu tư bằng nguồn vốn nhà nước trên toàn tỉnh phải sử dụng 100% vật liệu xây không nung. Trong khi đó, tỉnh Quảng Trị hiện chỉ có một số cơ sở sản xuất Blô xi măng, gạch Blốc lát sân vườn quy mô nhỏ; nếu sử dụng gạch không nung từ các địa phương khác sẽ làm tăng đáng kể chi phí xây dựng công trình. Do đó, tỉnh đang làm việc với Bộ Xây dựng để điều chỉnh thời hạn hiệu lực của Thông tư 09/2012/TT-BXD cho phù hợp với tình hình địa phương. Chính vì vậy, phát triển gạch không nung hiện là một yêu cầu cấp bách của xã hội, đồng thời đây cũng là thời điểm thuận lợi để các nhà đầu tư đẩy mạnh phân khúc sản phẩm này . Gạch không nung nhìn chung được phân thành 3 nhóm: Gạch xi măng-cốt liệu được sản xuất từ hỗn hợp xi măng và các loại cốt liệu (cát, đá mạt, bột đá, xỉ than), tạo cường độ bằng công nghệ rung - nén, dưỡng hộ tự nhiên hoặc hấp hơi nước. Gạch đặc có cường độ chịu lực cao, tuy nhiên khá nặng (trọng lượng thể tích >1.900 kg/m 3 ), có thể dùng để xây móng, tường chịu lực. Gạch rỗng có cường độ chịu lực vừa phải, trọng lượng thể tích 1.300÷1.800kg/ m 3 (tương đương gạch nung tunel), thường dùng để xây tường ngăn, bao che. Bê tông nhẹ được sản xuất trên cơ sở bê tông khí hoặc bê tông bọt, là những sản phẩm bê tông trong đó cốt liệu đá được thay bằng các túi khí hoặc bọt. Bê tông khí chưng áp dùng nguyên liệu xi măng, vôi, cát, tro, xỉ than, bột nhôm, nước. Bê tông bọt dùng nguyên liệu xi măng, cát, tro, xỉ than, chất tạo bọt, nước. Bê tông nhẹ có trọng lượng khoảng 400 kg/ m3÷1.200 kg/m 3 (có thể nổi trong nước), cường độ tương đối thấp, thường sử dụng để xây tường bao, tường ngăn. Gạch đất polymer hóa được sản xuất trên cơ sở ép tạo hình hỗn hợp phối liệu gồm: đất sét đồi + cốt liệu (cát, đá mạt, phế thải công nghiệp) + phụ gia, dưỡng hộ tự nhiên. Gạch có cường độ chịu lực khá cao nhưng tương đối nặng (trọng lượng thể tích 1.900÷2.100 kg/ m 3 ). Việc sử dụng loại gạch này trong thực tế còn hạn chế, theo chúng tôi, có thể dùng để xây tường chịu lực của nhà 1÷2 tầng và tường ngăn, bao che. Cả 3 nhóm vật liệu xây không nung trên đều có tiềm năng để phát triển tại Quảng Trị. Sản lượng xi măng của tỉnh đủ đáp ứng nhu cầu sản xuất và trong trường hợp mở rộng sản xuất quy mô lớn, nguồn đá vôi sản xuất xi măng cũng đảm bảo. Đá mạt, bột đá có thể tận dụng từ công nghiệp xay, nghiền đá xây dựng đã có. Nguồn nguyên liệu đất sét đồi, cát (kể cả cát thải từ công nghiệp khai thác titan) rất dồi dào. Hệ thống giao thông nội và ngoại tỉnh khá phát triển, thuận lợi cho việc vận chuyển tiêu thụ sản phẩm. Khó khăn cơ bản là tâm lý e ngại của chủ đầu tư đối với sản phẩm vật liệu xây không nung có thể được khắc phục theo thời gian, qua minh chứng của các công trình xây dựng thành công, mà trước hết là các công trình sử dụng vốn đầu tư ngân sách nhà nước bắt buộc sử dụng loại vật liệu này. Để đưa vật liệu xây dựng không nung vào cuộc sống theo đúng lộ trình Chính phủ quy định, xin có một số đề xuất: Đối với nhà nước: Hạn chế cấp phép mới các cơ sở sản xuất gạch nung; thực hiện đầy đủ các chính sách ưu đãi đầu tư đối với sản xuất gạch không nung và các quy định về sử dụng vật liệu xây không nung trong công trình xây dựng. Đối với nhà đầu tư: Lựa chọn dây chuyền sản xuất và công nghệ phù hợp (nên chọn dây chuyền quy mô vừa hoặc nhỏ, công nghệ hiện đại vừa phải, giá thành sản phẩm có tính cạnh tranh). Tiến độ đầu tư phù hợp: Từ nay đến 2015, đầu tư mới 2÷3 dây chuyền sản xuất gạch xi măng-cốt liệu và gạch đất polymer hóa (tổng công suất 40÷50 triệu viên/năm); giai đoạn 2015÷2020, tăng công suất sản xuất gạch xi măng-cốt liệu và gạch đất polymer hóa lên 80-100 triệu viên/năm, đồng thời nghiên cứu đầu tư 1 nhà máy sản xuất bê tông khí chưng áp. Thực hiện kiểm định, công bố hợp chuẩn, đẩy mạnh quảng bá tính năng, chất lượng gạch không nung. Riêng đối với các cơ sở sản xuất gạch nung đang hoạt động, cần chủ động điều chỉnh cơ cấu sản phẩm, từng bước tăng tỷ lệ gạch không nung để thích ứng với tình hình mới và đạt hiệu quả cao trong sản xuất . Hoàn toàn có thể tin tưởng rằng, khi chính quyền cùng chung tay với cộng đồng doanh nghiệp, ngành công nghiệp vật liệu xây không nung của tỉnh sẽ sớm hình thành và phát triển. TRƯƠNG CHÍ TRUNG