Sông chít khăn tang bên thi hài liệt sĩ
(QT) - Cảnh tượng 10 tên lính ngụy ăn gan, uống mật nữ y tá Huyện Đội Hải Lăng Lê Thị Tuyết vào chiều 5-7-1968 luôn đè nặng kí ức bà Lê Thị Huê ở thôn Duân Kinh, xã Hải Xuân, huyện Hải Lăng (Quảng Trị). Không biết bao đêm bà vật vã trong nỗi ám ảnh của quá khứ hãi hùng và những cảm nhận đau đớn khôn cùng của thể xác. Bà Huê toàn mơ chạm mặt cái ác. Nhưng đó là phần sau kí ức của đời bà, còn ở thời khắc đó, bà Huê rầu rĩ nói: “Tui cứ tưởng tụi nó đang ăn sống gan heo!” Một ngày chưa kể... Hồi đó bà Huê 22 tuổi, là “vợ Việt cộng” nên bị liệt vào danh sách “cơ sở” của Cộng sản. Khi nghe tin bọn lính thủy đánh bộ Tiểu đoàn 4 ngụy đi càn các xã vùng ven dọc theo sông Vĩnh Định, du kích trong làng Duân Kinh đều phải tạm lánh đi nơi khác, bà Huê vẫn ở nhà vì nghĩ mình chỉ là một người dân bình thường. Bà nói: “Ai mà ngờ được. Khoảng 8 giờ sáng tụi lính xộc vô nhà rồi dong tui đi khắp làng, đầu trần manh trụi (không quần không áo). Ra đến bờ sông tui thấy một tốp khác nữa đang tra khảo o Tuyết. Tuyết cũng rứa, trần trụi, nằm bệt giữa bùn, chân trong bờ cỏ, đầu chúc ra ngoài, tóc xòa trong nước như rong bám mép sông. Thằng lính cầm xô chửi tục và xối nước vào miệng Tuyết, bọt xà phòng sủi trào phủ kín hết mặt. Tuyết sặc, quằn người lên kêu: “Tau là y tá. Tau không biết. Khai chi... mà khai!”, và ngất đi.”
 |
Liệt sĩ- Anh hùng LLVT Lê Thị Tuyết |
Rồi bà Huê cũng bị “lấy cung” bằng những xô nước đó, thứ nước xà phòng hòa ớt bột quặn thắt tim người buộc nó phải ngừng đập theo bản năng để bảo toàn sự sống. Mỗi lần tỉnh lại, bà Huê không còn màng đến sự lõa lồ, đau đớn của thể xác, bà chỉ muốn thằng lính ngụy đừng ngưng tay để bà chết hẳn. Bà nói: “Thiệt là chết còn hơn sống!” Đổ nước xà phòng chán, bọn lính lại dẫn hai chị em vào xóm... đốt nhà! Hễ thấy nhà nào đóng cửa, cả chuồng trâu, chuồng bò lụp xụp khả nghi đang có người nấp hoặc có hầm bí mật là chúng thập thò lùi hẳn đằng sau, đẩy hai chị em lên trước và bắt đốt. Bà Huê than: “Tai nghiệt! Bắt đốt nhà hàng xóm thà đốt nhà mình còn hơn. Nhưng cứ lần khần không chịu đốt thì tụi nó đạp dúi vô, bật lửa và liệng ngay Zippo lên mái nhà cho cháy luôn cả hai chị em.” Rồi hết đốt lại ra sông, lại lặp lại màn tra hỏi, đấm, đá, chửi thề, dội xà phong ớt... Một lần ngất, tỉnh lại bà Huê thấy chị Tuyết đang nằm giữa đống bọt xà phòng như thể nằm trên phao xốp chờ người đẩy ra sông; chị cọ cựa đầu tóc bết bùn nhìn bà, gửi gắm: - Em... không khai chi hết. Nếu sống được, chị nói mạ em gởi cho em bộ quần áo. Còn nếu chết thì thôi!” - Sống răng được nữa! Mần răng mà sống? Bà Huê thấy chị mỉm cười, nụ cười như báo trước tai hoạ lại sắp bổ xuống đầu. Về sau, trong những lần ngất, tỉnh, đầu óc bà thường mụ mẫm đi giữa những cơn mê sảng lèn chặt lồng ngực với nụ cười mong manh của Tuyết dập dềnh trên chiếc phao trôi... Trong cơn đau bà đã ú ớ gọi tên, cố sức chống khủyu tay để truồi xuống nước, nhưng rồi bừng tỉnh, bà thấy thằng lính đứng bên bỗng đảo mắt vứt tàn thuốc và người bà giãy lên, va mạnh dưới đế giày đang giẫm nghiến xuống cằm... Bà nói: “Tui chưa ăn thua. Mỗi lần vừa xối nước, Tuyết vừa bị tụi nó đứng lên bụng dận xuống, nước xà phòng ớt thành 2 vòi chảy ngược qua cửa miệng!” Một ngày dài đằng đẵng. “Một ngày sống chung với Tuyết” như bà Huê nói đó là ngày dài nhất của cuộc đời bà mà mỗi lần nhớ lại, bà thẫn thờ nuối tiếc những người như chị Tuyết, như bao anh hùng liệt sĩ khác đã từng đối mặt và vượt qua những thời khắc nghiệt ngã trong đời họ. Bà nói như nói cho riêng mình: “Tui chỉ là dân. Bọn nó lạ chi, vậy mà tui đã cầm chắc chết. Còn như Tuyết, trời đất, Tuyết mới 19 tuổi, bị bắt trước tui 2 ngày, ngực, cổ rỉ máu, đầy vết cắn...”. Nói đến đó bà Huê tái mặt. Bà lại sợ hãi. Có lẽ bà thấy lại bầy thú trườn qua người chị Tuyết. Và một cuộc đời Liệt sĩ, Anh hùng LLVT Lê Thị Tuyết sinh năm 1949 ở thôn Duân Kinh, xã Hải Xuân, Hải Lăng. Bố của chị là Liệt sĩ chống Pháp. 16 tuổi chị đã thoát ly, làm du kích hoạt động trong vành đai chiếm đóng của Mỹ - ngụy. Năm 1967 chị là y tá Huyện Đội Hải Lăng, thường xuyên có mặt tại khu vực rú Thi Ông, nơi vùng trằm lầy lội bên các cửa sông Vĩnh Định, Ô Lâu và những doi cát cây rừng nguyên sinh bao bọc. Rú Thi Ông được coi là hậu cứ và là nơi rút lui của du kích, bộ đội, thương binh sau các cuộc chiến đấu trong lòng địch. Chị Tuyết bị bắt tại bến Thi Ông bên sông Vĩnh Định và bọn chúng đã tra tấn, dẫn độ chị về làng để làm gương cho những ai muốn đi theo cách mạng.
 |
Bà Huê thắp hương tại Đài tưởng niệm Liệt sĩ- Anh hùng LLVT Lê Thị Tuyết |
Chiều 5-7-1968, lính ngụy đã trói chị vào cây mít ở một góc sân nhà thờ bỏ hoang rồi chúng cắt vú, xẻo tai, mổ bụng, moi gan... và hất xác chôn đứng chị trong một cái hố đào sẵn bên cây mít, chừa lại đầu ngoi trên mặt đất. Chị ở đó, 2 ngày 2 đêm, chỉ cách nhà mẹ đẻ vài trăm mét. Phải sang ngày thứ 3 sau khi bọn lính rút đi, bà con láng giềng buộc củi kéo quanh đầu chị để đề phòng bọn chúng gài lựu đạn rồi mới dám đào thi hài chị đưa đi mai táng. Bà Huê là hàng xóm, cũng là người ở bên chị ngày chót cuộc đời. Nhưng mãi đến ngày hôm sau, khi đã được thả về, bà Huê chết lặng khi biết mới chiều hôm qua, bà đã cầm trên tay miếng gan thứ 11, miếng gan của chị Tuyết! Bà ngậm ngùi kể: “Tụi lính lôi Tuyết đi khi mặt trời sắp lặn, tui xin đi theo nhưng tụi nó không cho. Lát sau cả bọn kéo về, bắt tui cùng ngồi quây tròn bên một cái soong nhôm; một thằng đeo lủng lẳng trước ngực một cái tai, một thằng cầm cái mật, thằng khác cầm lá gan tươi, hắn nghiêng bàn tay qua về và dòm lá gan lấp lánh, lấp lánh... Lá gan xẻ thành 11 miếng. Thằng ngồi bên đưa tui một miếng, nói “Ăn đi mà biết”. Tui nói: “Gan heo sống tui không ăn được.” Hắn tát tui một cái, rồi đốt cồn trong cái soong nhôm và hô “Nhậu!” Cả thảy 10 thằng...” 10 tên lính ngụy đã ăn một phần thi thể chị Tuyết ngay trước mặt bà Huê, ngay bên sông Vĩnh Định còn loang bọt xà phòng ớt phồng rộp giữa vạt bùn oằn xéo. Trời chiều chưa tắt nắng, để con sông chứng kiến hết gian truân một ngày đời của một con người nguyện đánh đổi từng giọt máu tuổi 19 để hoàn thành bổn phận cả đời. Mây bạc trắng trên trời, mây trắng vời vợi xoắn từng đụn lớn dưới sông thành những dải dài làm bà Huê rùng mình tưởng ai đó thả trôi từng bó khăn xô, chỉ chờ tàn cuộc nhậu của 10 tên lính ngụy, và chờ bà, chờ Tuyết... Bà Huê không hay con sông quê đang lặng lẽ chít khăn tang bên thi hài chị Tuyết. Bài, ảnh: Lê Minh Thắng