Suy nghĩ về đề tài xây dựng mô hình xã hội học tập ở Quảng Trị
(QT) - Đại hội Đảng X xác định “Chuyển dịch mô hình giáo dục hiện nay sang mô hình giáo dục mở- mô hình xã hội học tập”. Vậy mô hình và vận hành cụ thể như thế nào? Đó là vấn đề mà tất cả các tỉnh, thành đang tìm lời giải đáp. Hội Khuyến học Quảng Trị đang triển khai đề tài xây dựng mô hình xã hội học tập. Nhìn trên toàn cục cũng như thực tiễn địa phương, đó là một việc làm rất thiết thực và giàu ý nghĩa. Học là một hoạt động đã có từ rất sớm của loài người. Trải qua giai đoạn học trực tiếp từ trong lao động và cùng nhau chung sống, từ khi phát minh ra chữ viết, các loại hình trường, lớp đã được hình thành và cải tiến ngày một hợp lý hơn. Loài người đã ý thức rõ rệt về tầm quan trọng của sự học trong tiến trình đi lên của mình.
 |
Lãnh đạo tỉnh Quảng Trị trao học bổng khuyến học cho học sinh nghèo học giỏi. Ảnh: Thế Chung |
Tuy nhiên, trong nền văn minh nông nghiệp, do trình độ của nền sản xuất quá thấp mà yêu cầu về học vấn chưa trở thành bức bách. Mặt khác, khi “sức mạnh cơ bắp” có tầm quan trọng như vậy nên chỉ cần “sáng dũa cưa, trưa mài đục” theo một thợ cả là có thể đủ sống. Khi bước vào thời kỳ “văn minh ống khói”- thời kỳ công nghiệp thì người ta chỉ cần học một lần là có thể đủ cho cả đời. Bởi vì chu kỳ kỹ thuật kéo dài mấy chục năm, vòng đời của một công nghệ có khi kéo dài hàng thế kỷ. Nhưng ở thời kỳ “hậu công nghiệp”, với nền kinh tế tri thức và trong bối cảnh khoa học kỹ thuật phát triển như bão táp thì yêu cầu khách quan đã rất khác. Với tất cả mọi người, để chất lượng cuộc sống được đảm bảo, rõ ràng phải có hiểu biết. Đối với những người trực tiếp sản xuất (vật chất cũng như tinh thần), muốn có năng suất lao động cao thì việc phải có một trình độ tương ứng là một yêu cầu bắt buộc. Riêng với những người được học hành tử tế từ thấp đến cao qua các trường học thì học một lần không đủ cho cả đời vì sự tiến triển liên tục của quy trình sản xuất và công nghệ nên không cập nhật và làm chủ được sự thay đổi đó thì sẽ bị đào thải. Do đó, việc tổ chức lại sự học và sự ra đời của một mô hình học tập mới được đặt ra như một yêu cầu tất yếu. Vì vậy, từ đầu những năm 70 của thế kỷ XX, các nhà khoa học lớn như: HutchinsR., HusenT., BoshierR., GiddensA... đã đề xuất ý tưởng mới, rằng bản thân cuộc sống là một quá trình học tập liên tục cho đến khi kết thúc. Đối với nước ta, trong lĩnh vực học hành, dân tộc ta là một dân tộc đã có ý thức từ rất sớm về sức mạnh nội sinh. Vì vậy, đã từ lâu, thấu hiểu “Ngọc bất tác, bất thành khí- Nhân bất học, bất tri lý” (ngọc không chế tác không thể thành vật phẩm, người không học không hiểu được nghĩa lý). Coi trọng sự học, hiếu học và truyền thống khuyến học đã thành một giá trị truyền thống Việt Nam. Đây là nền tảng, là điểm tựa quan trọng khi nước ta từng bước xây dựng xã hội học tập. Với hậu quả chế độ thực dân phong kiến để lại 90% dân số bị mù chữ, sau Cách mạng tháng Tám, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Chính phủ mới đã ký ngay 3 Sắc lệnh quan trọng chống nạn thất học (thành lập bình dân học vụ toàn cõi Việt Nam, thiết lập lớp học bình dân buổi tối cho nông dân, thợ thuyền, học chữ quốc ngữ bắt buộc và không mất tiền cho mọi người. Hạn trong 1 năm, dân chúng Việt Nam trên 8 tuổi phải biết chữ quốc ngữ). Như vậy, ý tưởng mọi người đều học đã là tư tưởng và quyết tâm mạnh mẽ của Bác Hồ và chính quyền cách mạng ngay từ buổi đầu khai sinh nhà nước mới. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, khát vọng và ý chí học tập của người Việt Nam không mất đi nhưng phải tập trung sinh lực và thời gian cho cuộc chiến, lại thêm những khó khăn chồng chất của chiến tranh nên việc học hành cũng gặp nhiều trở ngại. Trong thời kỳ mới, đặt ra những yêu cầu mới như là một thách đố mà chỉ có thể tiến lên khi chúng ta vượt qua các thách đố đó một cách tỉnh táo và hiệu quả. Một trong những thách thức quan trọng đó là việc học và mô hình tổ chức học tập. Trong sứ mệnh lãnh đạo đất nước, Đảng và Nhà nước ta đã chủ động nắm bắt diễn biến và xu thế của thế giới cũng như nhận thức sâu sắc thời cơ và thách thức đối với dân tộc mình. Vì vậy, cùng với quan điểm xem “Giáo dục là quốc sách hàng đầu” thì ý tưởng xây dựng một xã hội học tập cũng hết sức rõ ràng. Ngày 24/8/1999, Bộ Chính trị đã có Chỉ thị 50/CT-TƯ đặt nền tảng đầu tiên. Tháng 3/2001, Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IX đã khẳng định: “Đẩy mạnh phong trào học tập trong nhân dân bằng những hình thức giáo dục chính quy và không chính quy, thực hiện giáo dục cho mọi người, cả nước trở thành một xã hội học tập”. Tháng 3/2003, hội nghị BCH Trung ương Đảng lần thứ VII (khóa IX) phát động ba cuộc vận động lớn mà một trong ba cuộc vận động đó là “Toàn dân thi đua xây dựng cả nước thành xã hội học tập”. Tháng 3/2005, Chính phủ phê duyệt chính thức đề án xây dựng xã hội học tập giai đoạn 2005-2010. Tháng 4/2006, chủ trương này được Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X khẳng định cụ thể hơn: “Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện”, “Chấn hưng giáo dục”, “Chuyển dần mô hình giáo dục hiện nay sang mô hình giáo dục mở- mô hình xã hội học tập với hệ thống học tập suốt đời, đào tạo liên tục, liên thông giữa các bậc học, ngành học”. Ngày 13/4/2007, Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị 11/CT-TƯ khẳng định việc “Xây dựng xã hội học tập là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân” và giao cho tổ chức Khuyến học Việt Nam làm nhiệm vụ “nòng cốt”. Tiếp theo, ngày 8/1/2008, trong Chỉ thị số 02/2008, Thủ tướng Chính phủ giao cho Hội Khuyến học “Nghiên cứu, đề xuất mô hình xã hội học tập ở Việt Nam”. Đối với Quảng Trị, khi bước vào thời kỳ hòa bình, xây dựng, Quảng Trị đã đi lên từ một điểm xuất phát thấp hơn nhiều so với tỉnh bạn. Đảng bộ và nhân dân toàn tỉnh đã phấn đấu quyết liệt nên trong 10 năm đã tăng trưởng GDP đạt 10% hàng năm... Riêng năm 2009, dù gặp nhiều khó khăn, thách thức... tốc độ tăng trưởng GDP đạt 9,1%”. Tuy nhiên, Quảng Trị vẫn còn là một tỉnh nghèo, cơ cấu nền kinh tế còn lạc hậu, nông nghiệp còn tới gần 30% (cả nước 20,6%), công nghiệp 34% (cả nước 40,2%), thương mại dịch vụ 35,5% (cả nước 40%), thu nhập bình quân đầu người 13,7 triệu đồng/năm (cả nước 20 triệu), tỷ lệ hộ đói nghèo 13,7% (cả nước 9%), thu ngân sách 810 tỷ/năm đứng thứ 55/64 tỉnh, thành. Rõ ràng là chúng ta đã vượt lên chính mình mạnh mẽ nhưng so với cả nước, nhất là so với yêu cầu thì còn phải phấn đấu nhiều. Vì vậy, mục tiêu tổng thể được Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ 13 xác định là: Phấn đấu sớm vượt ra khỏi nhóm tỉnh nghèo của cả nước. Trong lĩnh vực học hành, chúng ta vừa có những thuận lợi nhưng cũng không ít khó khăn. Trước hết là truyền thống hiếu học, khổ học và khuyến học của nhân dân. Cách đây hơn 400 năm, hương ước của rất nhiều làng đã khẳng định “Ai ai cũng phải học, học chữ, học lễ nghĩa, học nghề” (Phú Kinh, Hải Hòa) hoặc nhiều làng quy định chặt chẽ, rõ ràng chế độ “học điền” để khuyến học, khuyến tài. Từ năm 1502, danh nhân Bùi Dục Tài đã làm vẻ vang xứ Châu Ô bởi thành đạt và tiếp nối bao thế hệ đã bằng sự khổ học để trưởng thành. Trong 20 năm lập lại tỉnh, năm 1996, chúng ta đã hoàn thành phổ cập tiểu học (đạt 98,8%), xóa xong nạn mù chữ (đạt 99,35%). Năm 2005, phổ cập bậc THCS (đạt 97,9%) và những địa bàn thuận lợi đang từng bước phấn đấu phổ cập THPT. Từ năm 1999-2008, đã có 24.615 em nhập học đại học, cao đẳng 2.456 em vào học trung cấp chuyên nghiệp. Thành tựu về giáo dục được xem như một biểu trưng về thành tựu đổi mới của quê nhà. Từ 2001, Hội Khuyến học tỉnh ra đời, tập hợp và phát huy ý chí, sức mạnh của toàn xã hội đã hỗ trợ đắc lực và hiệu quả cho các trường học, đã xây dựng rộng khắp các gia đình và dòng họ hiếu học, tác động mạnh mẽ đến nhu cầu học tập của nhân dân. Đặc biệt, đã vượt qua bao khó khăn, năng động và sáng tạo hình thành các mô hình giáo dục tiếp tục, nhất là với 530 trung tâm học tập cộng đồng khắp toàn tỉnh. Nếu ngành Giáo dục được xếp trong tốp 10 thì phong trào khuyến học cũng được xếp là một trong số tỉnh mạnh nhất nước. Tuy nhiên, phải thừa nhận rằng, trình độ dân trí, nguồn nhân lực và nhân tài của chúng ta vẫn còn nhiều khó khăn. Đội ngũ trí thức Quảng Trị mới có 7.007 cử nhân, 193 thạc sĩ, 12 tiến sĩ. Bình quân trên 1 vạn dân mới có 183 cử nhân, 6,9 bác sĩ và 4,3 người có trình độ trên đại học (cả nước 306 người có trình độ đại học trên một vạn dân). Về cơ sở đào tạo sau phổ thông, tỉnh ta ở xa các cơ sở đào tạo lớn mà mới chỉ có một phân hiệu của Đại học Huế (với quy mô tuyển sinh rất nhỏ) và 1 trường Cao đẳng Sư phạm. Trong việc đào tạo nghề lại càng khó khăn hơn. Quảng Trị có 631.591 người trong độ tuổi lao động nhưng người đã qua đào tạo nghề: 21,6% (cả nước là 29%). Năm 2009, dù rất cố gắng mới giải quyết việc làm mới được 8.500 người. Nạn thất nghiệp ở thành thị cũng khá cao (4,3%). Để giải quyết đời sống cho nhân dân, đặc biệt để đáp ứng yêu cầu về nhân lực cho sự phát triển của công nghiệp, thương mại, dịch vụ, du lịch... việc đào tạo nghề vô cùng bức thiết. Chỉ thị 12/2002, Chương trình hành động số 44/2007 của Thường vụ Tỉnh ủy, các quyết định, chỉ thị của UBND tỉnh, các chương trình phối hợp hành động của các ban, ngành, đoàn thể với Hội Khuyến học, đặc biệt là sự hưởng ứng mạnh mẽ của nhân dân đã chứng tỏ quyết tâm lớn trong bước đầu xây dựng xã hội học tập ở Quảng Trị. Tuy nhiên, việc trả lời cụ thể, chính xác và hợp lý những câu hỏi được đặt ra từ thực tiễn về nhận thức, mô hình, cơ chế vận hành và các giải pháp tối ưu để thực hiện chủ trương lớn này thật không đơn giản. Đề tài nghiên cứu xây dựng xã hội học tập ở Quảng Trị là đề tài thử nghiệm của Hội Khuyến học tỉnh nhằm góp một phần nhỏ trong yêu cầu lớn đó. Đề tài tập trung vào 4 xã thuộc 2 huyện Hướng Hóa (miền núi) và Vĩnh Linh (đồng bằng). Đó là 4 xã có đặc thù khác nhau: xã Hướng Lộc (xã miền núi dân tộc), xã Vĩnh Thái (xã nghèo ven biển), Vĩnh Thủy (đồng bằng và gò đồi), thị trấn Lao Bảo (đô thị đang hình thành). Mục tiêu tập trung của đề tài là: Khảo sát toàn diện để xác định nhu cầu trước mắt có tính đến năm 2020. Từ nhu cầu kết hợp với việc phân tích các nguồn lực và khả năng xác định mô hình tối ưu và hiệu quả cho mỗi địa phương. Chỉ rõ cơ chế vận hành và các giải pháp tương ứng để mô hình có được kết quả như mong muốn. Mặc dù có những hạn chế như: Đề tài không đi sâu vào các vấn đề lý luận mà chủ yếu là tiếp thu các kết luận đã được khẳng định của thế giới và trong nước; Đề tài tập trung vào phạm vi hẹp (4 xã) chưa phản ánh hết các đặc thù của nhiều vùng, miền khác nhau của tỉnh; Là đề tài xã hội nhân văn nên các mô hình khi vận hành lệ thuộc vào nhiều điều kiện khác nhau phải tiếp tục giải quyết... nhưng rõ ràng đây là đề tài rất có ý nghĩa, vì: Về nhận thức, làm thống nhất cao hơn, sâu hơn trong quyết tâm đi theo hướng xây dựng xã hội học tập; mô hình cùng cơ chế vận hành cụ thể là lời giải hợp lý cho câu hỏi đang bức thiết đặt ra. Với 4 mô hình này khi được tổ chức thành công, mở rộng ra với 2 huyện và tiến dần lên với cả tỉnh, đó là một tương lai tốt đẹp, góp phần thúc đẩy sự phát triển nhanh và bền vững của quê nhà. Tin rằng, đề tài này của Hội khuyến học tỉnh cũng là một đóng góp thiết thực để Quảng Trị từng bước đi lên, hòa nhập với cả nước, thực hiện tốt Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ X: Xây dựng “mô hình giáo dục mở- mô hình xã hội học tập suốt đời”, góp phần làm cho “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Với sự nỗ lực của Hội Khuyến học Quảng Trị, sự hợp tác của các ngành, các cấp và sự ủng hộ của nhân dân, việc nghiên cứu, thể nghiệm nhất định sẽ gặt hái được những thành công. Trương Sĩ Tiến