Phát huy truyền thống cách mạng, đoàn kết một lòng xây dựng vùng dân tộc và miền núi phát triển toàn diện
NGUYỄN ĐỨC CƯỜNG, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Trị
.jpg)
|
Quảng Trị có 41 xã, thị trấn có đồng bào các dân tộc thiểu số sinh sống tập trung theo cộng đồng thôn, bản thuộc 2 huyện miền núi Hướng Hóa, Đakrông và một số xã thuộc huyện Vĩnh Linh, Gio Linh và Cam Lộ. Đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng miền núi Quảng Trị chủ yếu là người Vân Kiều và Pa Kô với dân số khoảng 15.170 hộ, 75.210 người. Từ bao đời nay, đồng bào các dân tộc thiểu số có truyền thống cách mạng, giàu lòng yêu nước, đoàn kết, tương thân, tương ái, đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước. Thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 (Khóa IX) của Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Kết luận số 57-KL/TW ngày 3/11/2009 của Bộ Chính trị về công tác dân tộc; Chỉ thị số 1971/CT-TTg ngày 27/10/2010 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường công tác dân tộc thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, thời gian qua, Tỉnh uỷ, HĐND, UBND tỉnh đã ban hành nhiều Nghị quyết, Chương trình, Kế hoạch về công tác dân tộc, phát triển kinh tế - xã hội vùng miền núi, đồng bào dân tộc thiểu số; đồng thời quan tâm chỉ đạo triển khai thực hiện trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng. Đặc biệt, từ sau Đại hội đại biểu các dân tộc thiểu số lần thứ I (năm 2009 - 2014) đến nay, tình hình kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở các địa bàn miền núi của tỉnh đã có bước chuyển biến quan trọng. Tỉnh đã tập trung các nguồn lực, tăng cường đầu tư cơ sở hạ tầng, triển khai thực hiện đầy đủ, kịp thời các đề án, chương trình, chính sách liên quan đến công tác dân tộc, đẩy mạnh các hoạt động hỗ trợ sản xuất, phát triển kinh tế - xã hội, xoá đói giảm nghèo, tạo nên diện mạo mới cho bộ mặt các vùng nông thôn miền núi của tỉnh, góp phần làm cho đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào không ngừng được cải thiện. Thực hiện Chương trình 135, trong 5 năm 2009 - 2014, hàng nghìn hộ gia đình đồng bào dân tộc thiểu số tại các địa bàn miền núi trong tỉnh đã được hỗ trợ từ nguồn vốn 151,33 tỷ đồng để phát triển sản xuất và xây dựng hạ tầng cơ sở. Trong đó dự án Hỗ trợ phát triển sản xuất (23 tỷ đồng), chủ yếu hỗ trợ giống cây trồng vật nuôi, hỗ trợ phân bón, máy móc thiết bị sản xuất, hỗ trợ vắcxin tiêm phòng gia súc, gia cầm. Dự án phát triển cơ sở hạ tầng (102,85 tỷ đồng): đầu tư xây dựng 120 công trình hạ tầng cơ sở gồm 91 công trình giao thông nông thôn, 3 công trình thủy lợi, 15 công trình trường học, 3 công trình điện, 3 công trình nước sinh hoạt, 4 công trình trung tâm học tập cộng đồng và 1 công trình trạm y tế. Dự án đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực cán bộ xã, thôn và cộng đồng (3,55 tỷ đồng). Chính sách Hỗ trợ các dịch vụ, cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân bao gồm hỗ trợ văn hóa thông tin, trợ giúp pháp lý để nâng cao nhận thức pháp luật, hỗ trợ học sinh con hộ nghèo đi học (15,73 tỷ đồng). Duy tu bảo dưỡng các công trình (6,2 tỷ đồng). Ngoài ra, từ năm 2010 - 2014, từ nguồn vốn tài trợ của Liên minh Châu Âu, Chính phủ Ai Len, Chính phủ Phần Lan đã thực hiện 12 công trình đường giao thông và 2 công trình nước sinh hoạt với tổng kinh phí 32 tỷ đồng. Chương trình 135 thực hiện trên địa bàn tỉnh đã giải quyết cơ bản những vấn đề quan trọng về giao thông, thuỷ lợi, điện, nước sạch, nhà sinh hoạt cộng đồng, trạm y tế... góp phần quan trọng làm thay đổi rất cơ bản bộ mặt nông thôn miền núi, tác động rất lớn đến quá trình thúc đẩy tăng trưởng các mặt về đời sống và sản xuất, tạo tiền đề vững chắc để người dân và địa phương phát triển kinh tế xã hội của vùng. Thực hiện Chính sách hỗ trợ đất sản xuất, đất ở, nhà ở, nước sinh hoạt theo Quyết định số 1592/TTg và Quyết định số 755/TTg của Thủ tướng Chính phủ, từ năm 2011 - 2014, tỉnh đã tiến hành hỗ trợ 18 tỷ đồng cho các địa phương thực hiện các công trình nước sinh hoạt tập trung và phân tán, hỗ trợ khai hoang đất ở và đất sản xuất, tiếp tục hỗ trợ học nghề và chuyển đổi nghề cho các đối tượng thụ hưởng. Chính sách hỗ trợ theo Quyết định số 1592/ TTg (Chương trình 134 kéo dài) đã tạo nên sự chuyển biến rõ nét về phát triển sản xuất, cải thiện đời sống ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Nhiều hộ trước đây không có khả năng tự làm nhà của mình, thiếu đất để làm ăn thì nay có nhà ở kiên cố, có đất sản xuất ổn định.
.jpg) |
Đồng chí Nguyễn Đức Cường, Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Trị trong một lần đến kiểm tra tình hình kinh tế - xã hội tại xã Vĩnh Ô, Vĩnh Linh - Ảnh: P.V |
Thực hiện chính sách hỗ trợ di dân thực hiện định canh, định cư (ĐCĐC), tỉnh đã xây dựng 13 dự án ĐCĐC tập trung cho 767 hộ, 17 dự án ĐCĐC xen ghép cho 621 hộ trên địa bàn các xã vùng đặc biệt khó khăn, biên giới với nhu cầu thực sự cần thiết, đảm bảo có hiệu quả và bền vững với phương án đầu tư xây dựng hạ tầng hợp lý, tiết kiệm. Từ năm 2008 - 2014 Trung ương bố trí vốn 80,56 tỷ đồng. Với nguồn vốn trên, tỉnh đã tập trung thực hiện 8 dự án ĐCĐC tập trung, trong đó có 5 dự án ĐCĐC tập trung đã hoàn thành và đã đưa các hộ dân vào sinh sống, làm ăn tại khu định cư mới. Sau hơn 5 năm triển khai, đã thực hiện di dân cho 263 hộ dân vào ở ổn định tại các điểm định canh định cư và tiếp tục thực hiện công tác di dân đưa tiếp 49 hộ vào sinh sống. Các dự án ĐCĐC tập trung đã góp phần ổn định cuộc sống cho người dân, tạo công ăn việc làm, phát triển sản xuất, góp phần xóa đói giảm nghèo, nâng cao đời sống cho người dân. Các điểm ĐCĐC sau khi hoàn thành sẽ trở thành những mô hình phát triển kinh tế ở vùng nông thôn miền núi. Chính sách đầu tư vùng biên giới cũng đã được triển khai hiệu quả tại 16 xã biên giới của 2 huyện miền núi Hướng Hoá và Đakrông. Từ năm 2010 - 2014 với số vốn đầu tư 40 tỷ đồng đã thực hiện xây dựng 85 công trình cơ sở hạ tầng. Các công trình được đầu tư hiện đã đưa vào khai thác sử dụng góp phần nâng cao chất lượng cơ sở hạ tầng, tạo điều kiện khai thác có hiệu quả tiềm năng, phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói giảm nghèo, cải thiện và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào các dân tộc thiểu số, đồng thời bảo vệ vững chắc an ninh vùng biên giới. Đakrông là huyện nghèo của tỉnh Quảng Trị được đầu tư để thực hiện “Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 62 huyện nghèo” theo Nghị quyết số 30a/2008/ NQ-CP ngày 28/12/2008 của Chính phủ. Trong 5 năm 2009 - 2013, ngân sách Trung ương đã đầu tư trực tiếp 215,79 tỷ đồng, trong đó thực hiện đầu tư cơ sở hạ tầng 166,12 tỷ đồng (61 công trình các loại); đầu tư, chăm sóc và bảo vệ rừng trồng 11,82 tỷ đồng; hỗ trợ sản xuất, tạo việc làm tăng thu nhập, chính sách cán bộ, đào tạo nâng cao dân trí 37,85 tỷ đồng. Ngoài nguồn ngân sách Trung ương đầu tư trực tiếp, Tập đoàn Viễn thông Quân đội Viettel cũng đã trích quỹ phúc lợi trên 30 tỷ đồng hỗ trợ huyện Đakrông xây nhà ở cho hộ nghèo, phát triển hạ tầng viễn thông, trang thiết bị y tế, giáo dục, khuyến học và hỗ trợ người dân về phát triển sản xuất... Thông qua việc thực hiện các nội dung của Nghị quyết 30a/NQ-CP đã góp phần lớn vào việc cải thiện đời sống và sản xuất cho đồng bào các dân tộc. Đời sống mọi mặt của đại bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn được nâng lên rõ rệt, thu nhập bình quân đầu người từ 3,71 triệu đồng/năm vào năm 2009 tăng lên 7,37 triệu đồng/năm; tỷ lệ hộ nghèo giảm đáng kể, bình quân giai đoạn 2009 - 2013 giảm 5,69%/năm; các hộ đói triền miên trước đây được xóa hẳn. Ngoài huyện Đakrông là một trong 62 huyện nghèo nhất cả nước được hưởng chính sách giảm nghèo nhanh và bền vững theo nghị quyết 30a/NQ-CP của Chính phủ; vùng dân tộc và miền núi của tỉnh còn 9 xã và 23 thôn có tỷ lệ hộ nghèo trên 50%. Nhằm tạo ra bước đột phá trong xoá đói giảm nghèo nhanh và bền vững đối với những xã nghèo, thôn, bản khó khăn nhất của tỉnh…, năm 2012, UBND tỉnh đã xây dựng Đề án giảm nghèo bền vững đối với các xã, thôn, bản vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn nêu trên, được HĐND tỉnh thông qua tại Nghị quyết số 06/2012/NQ-HĐND ngày 13/4/2012. Đây là một chính sách lớn của tỉnh về giảm nghèo, bảo đảm an sinh xã hội cho nhân dân ở các vùng nghèo, vùng đặc biệt khó khăn. Trong gần 3 năm triển khai thực hiện, nhờ sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp, các ngành nên Đề án đã đạt được một số kết quả bước đầu; đời sống nhân dân các xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn đã có những bước chuyển biến tích cực, tỷ lệ giảm nghèo ở vùng thuộc đề án nhanh hơn so với những năm trước. Bằng nhiều nguồn vốn từ các chương trình, dự án, các nhà tài trợ, từ năm 2012 - 2014 đã đầu tư trên 117 tỷ đồng tập trung xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất và dân sinh, quy hoạch các điểm dân cư, khu sản xuất, hỗ trợ sản xuất, tạo việc làm, tăng thu nhập cho nhân dân...
.jpg) |
Bộ đội biên phòng Quảng Trị khám và chữa bệnh cho đồng bào dân tộc vùng biên giới - Ảnh: H.C |
Thực hiện chính sách hỗ trợ trực tiếp người dân hộ nghèo theo Quyết định số 102/2009/ QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, trong 3 năm (2010 - 2013) toàn tỉnh đã thực hiện hỗ trợ về đời sống cho người dân hộ nghèo với số tiền 15,47 tỷ. Trong đó các địa phương đã thực hiện hỗ trợ cho người dân hộ nghèo 326,4 tấn muối I ốt và bột canh, 16.767 lít dầu ăn và 10,21 tỷ đồng tiền mặt. Mặc dù định mức hỗ trợ của chính sách còn thấp so với nhu cầu thực tế của nhân dân nhưng cũng đã phần nào giúp cho người dân vùng khó có điều kiện để chủ động trong việc mua các loại giống cây trồng, vật nuôi cũng như một số vật tư cần thiết khác để phục vụ cho việc tổ chức sản xuất của gia đình, góp phần tăng thêm thu nhập, từng bước xóa đói giảm nghèo và ổn định đời sống. Thực hiện chính sách vay vốn phát triển sản xuất đối với hộ đồng bào dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn, từ năm 2010 - 2013 đã có 830 hộ vay vốn với tổng số vốn vay là 3.737 triệu đồng, dư nợ tín dụng của chính sách này là 93.745 triệu đồng. Ngoài ra các chương trình tín dụng ưu đãi khác đối với đồng bào dân tộc thiểu số cũng đã được triển khai thực hiện. Giai đoạn 2010 - 2013 đã có 93.745 lượt hộ nghèo đồng bào dân tộc thiểu số vay vốn với tổng số vay là 58.198 triệu đồng; 159 hộ cận nghèo đồng bào dân tộc thiểu số được vay 3.937 triệu đồng; 257 hộ người dân tộc thiểu số vay 4.083 triệu đồng cho con em là học sinh, sinh viên các trường ĐH, CĐ; 214 hộ lao động người dân tộc thiểu số vay vốn xuất khẩu với tổng vốn vay là 7.022 triệu đồng. Thực hiện Chính sách đối với người có uy tín theo Quyết định số 18/2011/QĐ-TTg, trong 3 năm 2012 - 2014 toàn tỉnh đã có 746 lượt người được bầu chọn là người có uy tín trong đồng bào các dân tộc thiểu số (năm 2012: 248 người, năm 2013: 248 người và năm 2014: 250 người). Trong hai năm 2012 - 2013 kinh phí thực hiện thực hiện chính sách đối với người có uy tín theo Quyết định số 18/2011/QĐ-TTg gần 1,3 tỷ đồng.. Có thể nói rằng, nhờ triển khai mạnh mẽ các chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước đã góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội vùng dân tộc và miền núi từng bước phát triển. Về phát triển sản xuất nông, lâm nghiệp: Đây là ngành kinh tế chủ yếu của các huyện miền núi. Những năm qua đồng bào dân tộc thiểu số đã tích cực chuyển đổi diện tích trồng lúa rẫy kém hiệu quả sang trồng rừng sản xuất, ngô hàng hóa, đậu xanh, sắn vàmột sốcây trồng khác có giá ́trị kinh tế cao hơn. Cụ thể: đã chuyển đổi hơn 200 ha lúa nương rẫy sang trồng ngô, rừng sản xuất. So với đầu năm 2010, diện tích trồng sắn nguyên liệu tăng hơn 600 ha, diện tích cao su tăng 400 ha, diện tích ngô tăng hơn 100 ha. Việc ứng dụng tiến bộ KHKT vào thâm canh, phòng trừ sâu bệnh ngày càng được nông dân ở vùng dân tộc thiểu số chú trọng. Nhiều mô hình IPM, ICM trên cây lúa, cà phê, cao su, hồ ̀tiêu được triển khai thành công đã nâng cao nhận thức của người nông dân về một phương thức canh tác mới, tiến bộ. Nhiều giống cây trồng mới như: Ngô C919, LVN 10, lạc L14,… được đưa vào sản xuất đã nâng cao năng suất và sản lượng cây trồng. Các mô hình kinh tế trang trại tiếp tục được nhân rộng, nhiều hộ đồng bào dân tộc thiểu số đã cải tạo vườn tạp, nương rẫy, đồi núi trọc, lập gia trại, trang trại theo mô hình VAC, VACR đạt hiệu quả kinh tế cao. Chăn nuôi phát triển mạnh, đồng bào đã ý thức được việc thay đổi dần tập quán chăn nuôi lạc hậu, hạn chế thả rông gia súc, xây dựng chuồng trại, quy hoạch vùng chăn nuôi. Về lâm nghiệp, tỉnh đã triển khai Đề án giao rừng tự nhiên cho cộng đồng dân cư thôn, hộ gia đình và cá nhân. Kết quả giao rừng đến năm 2013: đã tổ chức giao rừng tự nhiên cho cộng đồng và hộ gia đình là: 7.297,1 ha. Trong đó: giao cho cộng đồng: 5.200,7 ha (37 cộng đồng); giao cho hộ gia đình: 2.096,4 ha (292 hộ gia đình).
.jpg) |
Giao thông nông thôn ở miền núi ngày càng được kiên cố hóa - Ảnh: PHƯƠNG HOAN |
Về đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng và thực hiện Chương trình MTQG xây dựng nông thôn mới: Thực hiện Chương trình MTQG xây dựng nông thôn mới, tỉnh đã chỉ đạo các địa phương tích cực huy động, lồng ghép các nguồn vốn đầu tư cho nông thôn mới, trong đó ưu tiên bố trí cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số Các cấp ủy đảng, các ngành, các tổ chức chính trị xã hội và chính quyền địa phương đã quan tâm thực hiện công tác tuyên truyền, vận động đồng bào dân tộc thiểu số biết và hiểu rõ mục đích, ý nghĩa nội dung của Chương trình MTQG xây dựng nông thôn mới. Qua đó đã tạo được sự chuyển biến về mặt nhận thức của người dân, thu hút được sự quan tâm đồng tình hưởng ứng, tự giác tham gia của đồng đảo tầng lớp nhân dân bằng những việc làm thiết thực, đóng góp công sức chỉnh trang nông thôn; hiến đất, góp công để làm đường giao thông, xây dựng trường học, trạm y tế… Tính đến tháng 6/2014, tổng nguồn vốn đầu tư cho nông thôn mới tại các xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số đạt 326 tỷ đồng, trong đó vốn đầu tư trực tiếp từ Chương trình MTQG xây dựng nông thôn mới là 35 tỷ, vốn lồng ghép các chương trình, dự án là 248 tỷ, vốn các doanh nghiệp 6,5 tỷ, vốn dân đóng góp 36,5 tỷ. Từ các nguồn vốn nói trên, các địa phương đã đầu tư xây dựng hàng trăm công trình cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất và đời sống của nhân dân. Đến nay, 100% số xã trong vùng đã có đường ô tô, điện lưới quốc gia đến trung tâm xã; có 95% số hộ dùng điện lưới; phần lớn các xã vùng cao đã có lớp mẫu giáo, các nhóm trẻ gắn với trường tiểu học; 100% số xã đều có trường tiểu học; toàn tỉnh có 1 trường phổ thông dân tộc nội trú tỉnh, 4 trường phổ thông dân tộc nội trú huyện; các huyện miền núi có trung tâm y tế và 100% số xã có trạm y tế; 100% số xã phủ sóng phát thanh, truyền hình, trên 80% số hộ dùng nước sinh hoạt hợp vệ sinh. Đối chiếu với các quy định về tiêu chí nông thôn mới, đến nay vùng đồng bào dân tộc thiểu số của tỉnh có 4 xã đạt từ 10 - 14 tiêu chí, 20 xã đạt từ 5 - 9 tiêu chí, 17 xã đạt dưới 5 tiêu chí. Về văn hóa, y tế, giáo dục và đào tạo: Các hoạt động văn hoá thông tin, thể dục thể thao và truyền thanh - truyền hình tiếp tục được tăng cường, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội và đời sống văn hoá tinh thần của nhân dân. Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” được đẩy mạnh. Hiện nay, vùng đồng bào dân tộc thiểu số có gần 80% thôn, làng được công nhận danh hiệu làng văn hóa; có khoảng 75% số hộ được công nhận danh hiệu gia đình văn hóa. Phong trào thể dục, thể thao ở các đơn vị, địa phương tiếp tục phát triển. Lễ hội văn hóa - thể thao ở các địa phương có đồng bào dân tộc thiểu số ngày càng đi vào chiều sâu với các hoạt động văn hóa - thể thao phong phú, đậm đà bản sắc dân tộc. Có 20 loại báo, tạp chí và tranh ảnh chuyên đề dân tộc và miền núi cấp không thu tiền đã đến với đồng bào vùng dân tộc, miền núi được kịp thời với số lượng ngày càng nhiều hơn. Công tác sưu tầm, nghiên cứu, bảo tồn, bảo tàng văn hóa vật thể và phi vật thể của các dân tộc được giữ gìn và phát huy như: phục hồi bảo tồn nhà dài truyền thống của đồng bào Pa Kô ở xã A Ngo; bảo tồn những địa chỉ có tiềm năng phát triển du lịch như bản Làng Cát xã Đakrông; phục hồi và bảo tồn một số làng nghề truyền thống như nghề dệt thổ cẩm ở làng Klu, A Ròng dưới, Cu Tài (huyện Đakrông); nghề làm chổi đót ở Linh Thượng, Vĩnh Trường; nghề chế tác nhạc cụ tại bản Cựp xã Húc Nghì. Các lễ hội truyền thống và phi vật thể được khôi phục và giữ gìn như: lễ hội cồng chiêng, lễ cúng cơm mới, lễ A riêu ping của người Pa Kô, lễ Ra pựp của người Vân Kiều, các làn điệu dân ca như Ka lơi cha chấp, Oát xa nớt... Công tác chăm sóc sức khỏe, khám chữa bệnh cho người nghèo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số trong những năm qua được ngành y tế quan tâm đúng mức, đạt được nhiều kết quả tích cực. Việc tăng cường bác sĩ, đầu tư trang thiết bị y tế cho tuyến cơ sở đã tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, đặc biệt là ở vùng sâu vùng xa trong khám chữa bệnh. Công tác y tế dự phòng được thực hiện tốt, nhiều năm không có dịch bệnh lớn xảy trên địa bàn. Công tác chăm sóc sức khoẻ bà mẹ và trẻ em ngày càng được chú trọng. Công tác xã hội hoá về y tế đã được các cấp, các ngành triển khai thực hiện. Đặc biệt tại các xã biên giới, các đồn biên phòng đã làm tốt công tác quân dân y kết hợp. Chất lượng khám, chữa bệnh tiếp tục được nâng lên; trạm y tế các xã, thị trấn vùng dân tộc miền núi đã bố trí đầy đủ đội ngũ y, bác sĩ để phục vụ khám chữa bệnh, cấp cứu kịp thời. Mạng lưới y tế cơ sở được củng cố và tăng cường; hiện nay cótrên 85% trạm y tế xã, thị trấn có bác sĩ; 100% thôn có nhân viên y tế; 100% trạm y tế đảm bảo đủ thuốc thiết yếu phục vụ yêu cầu khám chữa bệnh thông thường. Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng giảm còn dưới 20%. Tốc độ tăng dân số vùng đồng bào dân tộc thiểu số đã được kiểm soát. Công tác giáo dục và đào tạo đã được quan tâm đầu tư toàn diện. Cơ sở hạ tầng ngày càng được đầu tư đồng bộ đáp ứng yêu cầu dạy và học. Hiện nay trên địa bàn vùng dân tộc thiểu số các trường tiểu học, THCS đều đã được đầu tư xây dựng kiên cố, khang trang. Mạng lưới trường nội trú, bán trú cũng đã được chú trọng củng cố và phát triển. Trên địa bàn tỉnh có 1 trường Phổ thông dân tộc nội trú bậc THPT với quy mô trên 300 học sinh; 4 trường Phổ thông dân tộc nội trú bậc THCS ở các huyện Hướng Hóa, Đakrông, Gio Linh và Vĩnh Linh với quy mô trên 800 học sinh, có 8 trường phổ thông dân tộc bán trú với quy mô gần 1.200 học sinh học bán trú. Đội ngũ giáo viên vùng dân tộc thiểu số thường xuyên được bồi dưỡng, tập huấn nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng sư phạm, kỹ năng ứng dụng công nghệ thông tin. Các chế độ chính sách đối với giáo viên vùng đặc biệt khó khăn được quan tâm thực hiện đầy đủ, kịp thời qua đó động viên thầy cô an tâm công tác gắn bó lâu dài với sự nghiệp trồng người ở vùng dân tộc thiểu số. Các ngành học, cấp học từ giáo dục mầm non đến giáo dục phổ thông vùng dân tộc thiểu số đều quan tâm đến việc huy động trẻ, học sinh đến trường, chất lượng giáo dục đã được nâng lên rõ rệt, tăng tỷ lệ học lực khá giỏi và hạn chế được học sinh bỏ học, hạnh kiểm yếu. Các chế độ, chính sách đối với học sinh người dân tộc thiểu số như: miễm giảm học phí, hỗ trợ ăn trưa, hỗ trợ gạo... đã được ngành giáo dục và các địa phương phối hợp thực hiện khá đầy đủ. Số học sinh người dân tộc thiểu số thi đỗ đại học ngày càng tăng, tính riêng Trường PTDTNT tỉnh trong ba năm 2012 - 2014 đã có 37 em thi đỗ đại học (đạt tỷ lệ 12,7%).
.jpg) |
Tình rừng - Ảnh: ĐÌNH CẢNH |
Về xóa đói giảm nghèo: Thông qua việc triển khai hàng loạt chương trình, dự án đầu tư hỗ trợ cho các hộ nghèo, cận nghèo, hộ gia đình chính sách ở vùng dân tộc, miền núi đã mang lại kết quả rõ rệt. Cuối năm 2011, vùng đồng bào dân tộc thiểu số có 9.626 hộ nghèo (chiếm 36,35%), đến cuối năm 2013 đã giảm còn 7.477 hộ nghèo (chiếm 24,99%). Tỷ lệ hộ nghèo vùng đồng bào dân tộc thiểu số từ 2011 - 2013 đã giảm 11,36%, bình quân mỗi năm giảm 3,78% (tương ứng giảm 716 hộ nghèo). Về công tác bảo trợ xã hội: các ngành, các cấp đã quan tâm chỉ đạo và triển khai thực hiện các chính sách trợ giúp đối tượng xã hội vùng dân tộc thiểu số một cách kịp thời, có hiệu quả, giảm bớt khó khăn của các đối tượng trong cuộc sống, thể hiện tính ưu việt của Nhà nước ta và góp phần quan trọng trong việc đảm bảo an sinh xã hội, thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế ở địa phương. Đến nay trên địa bàn vùng đồng bào dân tộc thiểu số đã có hơn 2.000 đối tượng được trợ cấp xã hội thường xuyên. Về công tác đào tạo nghề và giải quyết việc làm: Thực hiện các Đề án, chương trình đào tạo nghề trên địa bàn tỉnh Quảng Trị, đặc biệt là Quyết định 1956/QĐ-TTg ngày 27/11/2009 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020”, trong đó có chính sách dành cho đối tượng học nghề là đồng bào dân tộc thiểu số và cán bộ, giáo viên tham gia dạy nghề tại các vùng miền núi. Đến nay toàn tỉnh đã đào tạo nghề cho 2.518 lượt là người dân tộc thiểu số, chủ yếu đào tạo nghề trình độ sơ cấp nghề và dạy nghề dưới 3 tháng cho đồng bào dân tộc thiểu số. Ngành nghề đào tạo đa dạng, ngoài một số nghề nông nghiệp như trồng rừng, trồng sắn, chăn nuôi… còn tổ chức các lớp dạy nghề phi nông nghiệp như sản xuất chổi đót, kỹ thuật xây dựng… Thực hiện Quyết định số 71/2009/QĐ-TTg ngày 29/4/2009 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đề án hỗ trợ các huyện nghèo đẩy mạnh xuất khẩu lao động góp phần giảm nghèo bền vững giai đoạn 2009-2020 tại huyện Đakrông, giai đoạn 2009-2013 đã có 340 lao động được xuất cảnh sang các thị trường Nhật Bản, Hàn Quốc, Malaixia, các nước Trung Đông. Nhiều người đã có thu nhập từ hàng chục đến hàng trăm triệu đồng một năm, đã giúp cho gia đình họ thoát nghèo, vươn lên làm giàu. Về xây dựng và củng cố hệ thống chính trị ở cơ sở: Hệ thống chính trị cấp huyện và các xã, thị trấn vùng dân tộc, miền núi thường xuyên được kiện toàn, củng cố. Công tác xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền luôn được chú trọng. Hầu hết các thôn ở vùng đồng bào dân tộc đều có tổ chức đảng, số đảng viên người dân tộc phát triển ngày càng tăng. Tổ chức bộ máy cán bộ các cấp được quan tâm xây dựng, kiện toàn; các tổ chức trong hệ thống chính trị ở cơ sở ngày càng hoạt động có hiệu quả. Nội dung, phương thức hoạt động được đổi mới theo phương châm sát cơ sở, gần dân. Vị trí, vai trò của Mặt trận ngày càng được khẳng định, niềm tin của các tầng lớp nhân dân đối với Đảng, chính quyền được nâng cao. Ủy ban Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể các cấp đã bám sát nghị quyết của Đảng, nhiệm vụ chính trị của địa phương, các chương trình hành động của Đảng bộ các cấp; không ngừng nâng cao trách nhiệm, nỗ lực phấn đấu, vận động các tầng lớp nhân dân tổ chức thực hiện đạt kết quả khá toàn diện trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội, quốc phòng và an ninh. Chủ động phối hợp các ngành liên quan tổ chức đẩy mạnh tuyên truyền, vận động nhân dân hưởng ứng các phong trào thi đua yêu nước mang lại kết quả tốt như cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”, Cuộc vận động “Ngày vì người nghèo”, Cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”... Công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ công chức là người dân tộc thiểu số được các cấp ủy, chính quyền địa phương thường xuyên quan tâm chỉ đạo. Mặc dù ngân sách còn hạn hẹp nhưng hàng năm tỉnh luôn ưu tiên bố trí kinh phí để đào tạo, bồi dưỡng đối với CBCC người dân tộc thiểu số về lý luận chính trị, kiến thức QLNN, tin học, kỹ năng quản lý, lãnh đạo,...vì vậy chất lượng đội ngũ CBCC người dân tộc thiểu số trong thời gian qua đã được nâng lên đáng kể. Từ năm 2010 đến 2014 tỉnh đã tổ chức đào tạo bồi dưỡng được 2.417 lượt CBCC người dân tộc thiểu số, trong đó lý luận chính trị 315 lượt người, chuyên môn nghiệp vụ: 1.258 lượt người, kiến thức QLNN 172 lượt người, tin học văn phòng 287 lượt người, văn hóa phổ thông 185 lượt người, tiếng Bru Vân Kiều 200 người.
.jpg) |
Lễ hội chồng chiêng ở xã Tà Rụt, huyện Đakrông - Ả nh: THU BA |
Để thực hiện tốt các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội và công tác dân tộc trong thời gian tới, các cấp, các ngành cần tập trung làm tốt một số nhiệm vụ trọng tâm sau: 1. Tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền và lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện thắng lợi Nghị quyết Trung ương 7 (khóa IX) và Kết luận số 57-KL/TW ngày 3/11/2009 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 (khóa IX) về công tác dân tộc; Nghị định 05/2011/NĐ-CP của Chính phủ về công tác dân tộc; Quyết định 449/QĐ- TTg ngày 12/3/2013 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược công tác dân tộc đến năm 2020; Quyết định 2356/QĐ-TTg ngày 4/12/2013 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Chương trình hành động thực hiện Chiến lược công tác dân tộc đến năm 2020, Nghị quyết số 06/2012/NQ-HĐND ngày 13/4/2012 của HĐND khóa VI về giảm nghèo bền vững đối với các xã, thôn, bản ĐBKK trên địa bàn tỉnh có tỷ lệ hộ nghèo cao. 2. Huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực hỗ trợ của Trung ương, của tỉnh, các nhà tài trợ trong và ngoài nước. Tập trung chỉ đạo triển khai thực hiện có hiệu quả các chính sách, chương trình, dự án đầu tư đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số trên tất cả các lĩnh vực. Ưu tiên bố trí kinh phí, lồng ghép các chương trình dự án để đầu tư đối với huyện nghèo Đa krông và các xã, thôn, bản có tỷ lệ hộ nghèo cao theo Nghị quyết số 06/2012/NQ-HĐND của HĐND tỉnh. 3. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức của các cấp ủy đảng, chính quyền, các đoàn thể và nhân dân về các chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước về công tác dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc. Tăng cường củng cố hệ thống chính trị, xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở; phát huy vai trò của già làng, trưởng làng, những người có uy tín trong đồng bào các dân tộc. 4. Xây dựng và thực hiện tốt công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng, đãi ngộ cán bộ công chức là người dân tộc thiểu số. Tiếp tục nghiên cứu xây dựng cơ chế, chính sách ưu đãi nhằm thu hút cán bộ, công chức có trình độ chuyên môn nghiệp vụ về các xã vùng khó khăn công tác. Thực hiện các đề án, dự án, chương trình đưa trí thức trẻ về tăng cường cho các xã đặc biệt khó khăn, các xã vùng sâu, vùng xa. 5. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả các chương trình phát triển văn hóa, giáo dục, phủ sóng phát thanh, truyền hình. Nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo; mở rộng quy mô các trường dân tộc nội trú, bán trú; khuyến khích dạy tiếng dân tộc trong trường học, cho cán bộ, công chức, viên chức, người lao động và cán bộ chiễn sĩ các lực lượng vũ trang đóng quân vùng dân tộc, miền núi trong tỉnh. Thực hiện tốt chính sách cử tuyển đào tạo con em các dân tộc; nâng cao chất lượng, mở rộng quy mô dạy nghề và gắn với giải quyết việc làm cho thanh niên dân tộc thiểu số. Giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc thiểu số. Nâng cao hơn nữa chất lượng công tác chăm sóc sức khỏe cho đồng bào dân tộc, miền núi. 6. Tăng cường công tác an ninh - chính trị, trật tự an toàn xã hội. Giáo dục nâng cao kiến thức quốc phòng - an ninh, đẩy mạnh phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc, kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với củng cố quốc phòng - an ninh. Tăng cường đấu tranh chống âm mưu phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc, gây mất trật tự an toàn xã hội và các tệ nạn xã hội, các loại tội phạm xâm phạm biên giới. Tăng cường quan hệ đoàn kết hữu nghị với chính quyền và nhân dân nước bạn Lào. Với truyền thống yêu nước, tinh thần đoàn kết, anh dũng, kiên cường trong đấu tranh giành độc lập dân tộc, bảo vệ Tổ quốc; với sự nỗ lực vượt qua khó khăn để phát triển kinh tế, văn hóa xã hội, không cam chịu đói nghèo, cán bộ và nhân dân đồng bào dân tộc thiểu số trong tỉnh sẽ tiếp tục phát huy truyền thống cách mạng, đoàn kết, nỗ lực phấn đấu vươn lên đạt nhiều thành tích to lớn hơn nữa trong công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng an ninh vùng dân tộc và miền núi, đóng góp tích cực vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững quê hương và đất nước.