Tình hình kinh tế - xã hội năm 2009 và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2010
(QT) - Từ ngày 9 - 11/12/2009, HĐND tỉnh Quảng Trị khóa V đã tiến hành kỳ họp thứ 19. Tại kỳ họp, đồng chí Nguyễn Đức Cường, Chủ tịch UBND tỉnh đã trình bày báo cáo tóm tắt tình hình KT-XH năm 2009 và kế hoạch phát triển KT-XH năm 2010, toàn văn như sau: Phần thứ nhất Đánh giá kết quả thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội năm 2009 I. Bối cảnh thực hiện kế hoạch phát triển KT-XH năm 2009 Kế hoạch phát triển KT-XH năm 2009 được triển khai thực hiện trong bối cảnh khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế thế giới tác động nghiêm trọng đến kinh tế cả nước và tỉnh Quảng Trị. Bên cạnh đó, thiên tai, dịch bệnh liên tiếp xảy ra làm trầm trọng thêm những khó khăn vốn có của nền KT-XH tỉnh.
 |
Thành phố Đông Hà trên đường phát triển. Ảnh: P.V |
Thực hiện nhiệm vụ phát triển KT-XH năm 2009 theo kết luận của Tỉnh ủy và HĐND tỉnh đề ra; ngay từ đầu năm, UBND tỉnh đã ban hành kế hoạch hành động số 03/2009/QĐ-UBND thực hiện Nghị quyết 30/2008/NQ-CP, Nghị quyết 01/NQ-CP, Nghị quyết 30a/2009/NQ-CP của Chính phủ và Nghị quyết 19/2008/NQ-HĐND của HĐND tỉnh giao nhiệm vụ cụ thể cho các ngành, các cấp triển khai thực hiện kịp thời; trong đó đã tập trung chỉ đạo thực hiện quyết liệt, đồng bộ các nhóm giải pháp cấp bách nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế, khắc phục những khó khăn của địa phương, duy trì tăng trưởng kinh tế và bảo đảm an sinh xã hội. Dưới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy; sự ủng hộ và giám sát của HĐND tỉnh; phát huy sức mạnh đoàn kết, thống nhất, sự nỗ lực phấn đấu của cả hệ thống chính trị và tinh thần tự lực, tự cường của các tầng lớp nhân dân và cộng đồng doanh nghiệp; sự điều hành quyết liệt, kịp thời và có hiệu quả của chính quyền các cấp, đến nay, tuy khó khăn, thách thức vẫn còn nhiều những về cơ bản, tình hình KT-XH của tỉnh phát triển ổn định. II. Tình hình triển khai thực hiện kế hoạch phát triển KT-XH năm 2009: 1. Để ngăn chặn suy giảm kinh tế, tỉnh đã triển khai thực hiện tích cực, kịp thời các giải pháp cơ bản sau: 1.1. Tập trung tháo gỡ khó khăn để duy trì ổn định sản xuất, kinh doanh; huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn đầu tư: UBND tỉnh đã chỉ đạo phân bổ kế hoạch vốn đầu tư XDCB năm 2009 trong tháng 12/2008 và hướng dẫn, chỉ đạo triển khai ngay từ đầu năm. Ưu tiên bố trí vốn trả nợ khối lượng hoàn thành, các công trình chuyển tiếp có thể hoàn thành trong năm; các công trình trọng điểm của tỉnh và cân đối cho các chương trình, dự án ODA; hạn chế tối đa khởi công mới các công trình chưa thực sự cấp thiết theo đúng tinh thần Nghị quyết 19/2008/NQ-HĐND của HĐND tỉnh. Tập trung các nguồn vốn lớn từ ngân sách nhà nước, vốn trái phiếu Chính phủ, vốn ODA và vốn tín dụng phát triển để đầu tư các công trình kết cấu hạ tầng, tạo thuận lợi cho sản xuất và lưu thông hàng hóa; đẩy nhanh tiến độ xây dựng các công trình giáo dục, y tế; tăng cường đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng nông thôn theo Chương trình hành động số 72-CTHĐ/TU của Tỉnh ủy. Tỉnh đã tích cực kiến nghị, đề xuất danh mục các chương trình, dự án; tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của TƯ để bổ sung vốn kế hoạch năm 2009. Đồng thời, ứng trước nguồn vốn kế hoạch 2010 để đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án cấp bách, có khả năng hoàn thành trong năm 2009 và 2010. Chỉ đạo quyết liệt để đẩy nhanh tiến độ thực hiện và giải ngân nguồn vốn XDCB kế hoạch năm 2008 chuyển sang và vốn kế hoạch năm 2009. Trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt danh mục các dự án cấp bách áp dụng hình thức chỉ định thầu và hướng dẫn chi tiết việc chỉ định thầu các dự án có mức vốn tối đa không quá 5 tỷ đồng để tạo điều kiện đẩy nhanh tiến độ thi công các công trình, dự án trên địa bàn. Các nguồn vốn đầu tư của Nhà nước tăng mạnh vừa phát huy vai trò dẫn dắt, kích thích và gây hiệu ứng lan tỏa cho đầu tư của các thành phần kinh tế khác, vừa góp phần tăng GDP trong ngành xây dựng. Tỉnh đã đẩy mạnh thực hiện các giải pháp thu hút vốn đầu tư phát triển xã hội như: Trình HĐND tỉnh ban hành chính sách ưu đãi và hỗ trợ đầu tư trên địa bàn; Ban hành văn bản chỉ đạo đẩy mạnh thực hiện Đề án xã hội hóa các hoạt động giáo dục, đào tạo, y tế, văn hóa, thể dục thể thao để thu hút đầu tư; Ban hành danh mục kêu gọi vốn đầu tư trong và ngoài nước. Tiếp tục vận động triển khai các dự án ODA mới và mở rộng, kéo dài một số dự án ODA đã có. Tăng cường công tác xúc tiến và vận động đầu tư, nhất là đối với các dự án lớn, có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển KT-XH của tỉnh. UBND tỉnh đã kịp thời ban hành Quyết định số 18/QĐ-UBND ngày 11/9/2009 thay thế Quyết định số 11/2007/QĐ-UBND để phù hợp với Nghị định số 12/2009/NĐ-CP của Chính phủ nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý đầu tư xây dựng. Ban hành quy chế phối hợp liên thông trên lĩnh vực đăng ký kinh doanh, đăng ký thuế và đăng ký con dấu tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp và nhân dân trong hoạt động sản xuất, kinh doanh. Tỉnh tập trung chỉ đạo triển khai kịp thời, có hiệu quả các giải pháp kích cầu đầu tư và tiêu dùng theo chủ trương của Chính phủ, nhất là việc cho vay hỗ trợ lãi suất và thực hiện các chính sách về miễn, giảm, giãn thuế; thực hiện tốt các chính sách về hỗ trợ phát triển đối với các dự án vay tín dụng đầu tư, hỗ trợ tín dụng xuất khẩu, bảo lãnh tín dụng để chia sẻ khó khăn và tạo nguồn vốn cho các doanh nghiệp, các hộ sản xuất kinh doanh tiếp tục duy trì hoạt động ổn định, bảo đảm việc làm cho người lao động. Lãnh đạo tỉnh đã trực tiếp làm việc với các nhà đầu tư, các doanh nghiệp để vận động thực hiện các dự án, nâng cao năng lực sản xuất và tạo mới việc làm; chỉ đạo các ngành, các cấp tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong sản xuất, kinh doanh, nhất là các khó khăn về vốn, về thị trường, về đất đai; đồng thời giám sát chặt chẽ không để xảy ra tiêu cực trong quá trình thực hiện các biện pháp kích cầu. 1.2. Tập trung chỉ đạo đẩy mạnh phát triển các ngành nghề kinh tế: Về phát triển nông- lâm- ngư nghiệp: Tiếp tục triển khai thực hiện có hiệu quả Chương trình hành động số 72-CTHĐ/TU của Tỉnh ủy về nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Đẩy nhanh tiến độ thực hiện các chương trình, dự án xây dựng hế thống đê biển, kè chống xói lở bờ sông, hệ thống thủy lợi, chương trình kiên cố hóa kênh mương và giao thông nông thôn; chương trình phát triển nuôi trồng thủy sản, giống cây trồng vật nuôi; chương trình di dân phát triển vùng kinh tế mới và định canh, định cư; Chương trình 5 triệu ha rừng và các chương trình, dự án phát triển lâm nghiệp; phát triển hệ thống chợ; cụm công nghiệp làng nghề và những biện pháp gieo cấy kịp thời vụ, đẩy mạnh thâm canh, tăng năng suất, áp dụng kỹ thuật mới trong sản xuất nông nghiệp. Thực hiện tốt các chính sách hỗ trợ của nhà nước đối với nông dân và ngư dân, nhất là đối với các hộ gia đình bị thiệt hại do thiên tai, dịch bệnh; thực hiện có hiệu quả các chương trình, dự án phát triển nông nghiệp, nông thôn. Tập trung chỉ đạo thực hiện quyết liệt, khẩn trương và kịp thời một số biện pháp để từng bước khắc phục hậu quả nặng nề do cơn bão số 9 gây ra. Về phát triển công nghiệp- xây dựng: Tỉnh đã triển khai kịp thời và thực hiện có hiệu quả các giải pháp kích cầu của Chính phủ, nhờ vậy một số doanh nghiệp không chỉ phục hồi được sản xuất mà còn tăng về năng suất, chất lượng sản phẩm. trong điều kiện suy giảm kinh tế, nhiều doanh nghiệp và nhà đầu tư gặp khó khăn nhưng tỉnh đã tích cực vận động và làm tốt công tác hỗ trợ các nhà đầu tư nên đã triển khai thực hiện được một số dự án công nghiệp trọng điểm của tỉnh, trong đó có 2 dự án lớn đề ra trong kế hoạch 5 năm 2006-2010 của tỉnh là Nhà máy xi măng 60 vạn tấn/năm và Nhà máy bia Hà Nội công suất 15 triệu lít/năm. Nhiều dự án đang được đẩy nhanh tiến độ để sớm đưa vào hoạt động vào cuối năm hoặc đang được tích cực thực hiện. Kết cấu hạ tầng các khu công nghiệp Nam Đông Hà, Quán Ngang, các cụm công nghiệp, làng nghề được tập trung hoàn thiện và tích cực thu hút đầu tư. Hệ thống giao thông được quan tâm đầu tư xây dựng và nâng cấp từ nhiều nguồn vốn; đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu đi lại của nhân dân và phục vụ phát triển KT-XH của tỉnh. Đã có nhiều công trình giao thông hoàn thành, đưa vào sử dụng hoặc đang được đẩy nhanh tiến độ, phấn đấu hoàn thành trong năm và một số công trình lớn đang chuẩn bị đầu tư. Về phát triển thương mại, dịch vụ: Tỉnh đã triển khai kịp thời các biện pháp kích cầu của Chính phủ về đầu tư và tiêu dùng nên hoạt động thương mại- dịch vụ trên địa bàn phát triển tương đối ổn định, lưu thông hàng hóa đáp ứng được nhu cầu sản xuất, tiêu dùng của nhân dân. Các trung tâm thương mại Lao Bảo, Đông Hà, các chợ huyện, chợ nông thôn tiếp tục được đầu tư phát triển và phát huy hiệu quả. Chính sách trợ giá các mặt hàng thiết yếu miền núi được triển khai tích cực, phục vụ kịp thời hàng thiết yếu cho miền núi. Công tác quản lý thị trường, chống buôn lậu, gian lận thương mại và đầu cơ được thực hiện quyết liệt; công tác quản lý chất lượng hàng hóa và bảo vệ lợi ích người tiêu dùng được quan tâm hơn. Khu kinh tế- thương mại đặc biệt Lao Bảo tiếp tục được quan tâm phát triển về quy hoạch, đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng phục vụ nhu cầu dân sinh và giải quyết các vướng mắc để thu hút đầu tư. 2. Để thực hiện tốt các mục tiêu an sinh xã hội, bảo đảm đời sống nhân dân: Bên cạnh việc thực hiện tốt các chính sách đã có, tỉnh đã tích cực chỉ đạo triển khai có hiệu quả nhiều chính sách an sinh xã hội mới như: hỗ trợ người nghèo ăn Tết; trợ cấp khó khăn cho cán bộ công chức có thu nhập thấp trong 4 tháng đầu năm; hỗ trợ nhà ở cho hộ nghèo; thực hiện Đề án giảm nghèo nhanh và bền vững tại huyện Đakrông; hỗ trợ khuyến nông, khuyến ngư ở địa bàn khó khăn; xây dựng các công trình cấp nước ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số; hỗ trợ lãi suất vay mua vật liệu xây dựng nhà ở khu vực nông thôn; triển khai Đề án xây dựng nhà ở cho công nhân lao động tại các khu công nghiệp tập trung, nhà ở cho sinh viên, người có thu nhập thấp ở đô thị; chỉ đạo triển khai thực hiện quyết liệt, khẩn trương công tác cứu trợ khẩn cấp và tập trung khắc phục hậu quả nặng nề do cơn bão số 9 gây ra.
 |
Lễ khởi công xây dựng Nhà máy bia Hà Nội-Quảng Trị. Ảnh: Thành Dũng |
Quan tâm chăm lo và thực hiện tốt các chế độ, chính sách đối với người có công, thương bệnh binh, gia đình liệt sĩ; nâng cấp, tôn tạo các nghĩa trang liệt sĩ; xây dựng và phát triển Quỹ “Đền ơn đáp nghĩa”. Thực hiện tốt công tác bảo trợ xã hội; bảo vệ chăm sóc, giáo dục trẻ em, nhất là đối với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt. Chỉ đạo triển khai nhiều biện pháp tích cực để ổn định và tạo mới việc làm cho người lao động và đẩy mạnh chương trình đào tạo nghề. Ưu tiên thực hiện nhiều chương trình, chính sách hỗ trợ đầu tư vào địa bàn miền núi, đặc biệt là vùng đồng bào dân tộc thiểu số như các chương trình 135, chương trình 134, chính sách trợ giá, trợ cước hàng thiết yếu miền núi, các dự án ODA, NGO... để hỗ trợ phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo và đã thu được những kết quả tích cực. Chương trình kiên cố hóa trường, lớp học và Chương trình mục tiêu quốc gia về giáo dục- đào tạo đã được tỉnh chỉ đạo thực hiện có hiệu quả; sự nghiệp giáo dục- đào tạo tiếp tục được quan tâm phát triển cả về quy mô, nội dung, chất lượng và cơ cấu đào tạo. Cơ sở vật chất và mạng lưới của ngành Y tế không ngừng được mở rộng thông qua việc thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia về y tế, Đề án đầu tư xây dựng, cải tạo, nâng cấp bệnh viện đa khoa tuyến huyện và bệnh viện đa khoa khu vực, bệnh viện đa khoa tỉnh sử dụng vốn TPCP giai đoạn 2008-2010; Đề án nâng cấp hệ y tế dự phòng, trạm y tế xã theo Nghị quyết 18/2008/NQ-QH12 của Quốc hội. Công tác bảo vệ và chăm sóc sức khỏe nhân dân được chú trọng, đặc biệt là đối với trẻ em dưới 6 tuổi, người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số, người dân vùng đặc biệt khó khăn, đối tượng chính sách. Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa cơ sở” được đẩy mạnh; hoạt động TD-TT quần chúng, giáo dục thể chất học đường, phát triển thể thao thành tích cao được chú trọng. Các lĩnh vực báo chí, phát thanh truyền hình, bưu chính viễn thông, Internet phát triển ngày càng đa dạng, được đổi mới và nâng cao về chất lượng và nội dung đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị của tỉnh và nhu cầu hưởng thụ của nhân dân. Lĩnh vực khoa học và công nghệ được quan tâm đầu tư phát triển, góp phần đáng kể thúc đẩy phát triển KT-XH của tỉnh. Quản lý nhà nước về tài nguyên- môi trường được tăng cường. 3. Công tác tổ chức, xây dựng chính quyền và cải cách hành chính; các hoạt động trong lĩnh vực tư pháp; thanh tra, giải quyết khiếu nại tố cáo và tiếp công dân; phòng chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm và chống lãng phí được tăng cường và có nhiều chuyển biến tích cực. Quốc phòng và an ninh được coi trọng; an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội được giữ vững. III. Kết quả thực hiện Kế hoạch phát triển KT-XH năm 2009 Mặc dù gặp nhiều khó khăn do ảnh hưởng của suy thoái kinh tế thế giới, tình hình thiên tai, dịch bệnh và những khó khăn vốn của của nền KT-XH tỉnh Quảng Trị nhưng trong 11 tháng đầu năm, nhờ tập trung chỉ đạo quyết liệt, triển khai thực hiện đồng bộ các giải pháp nêu trên nên tình hình KT-XH của tỉnh phát triển ổn định. Kết quả thực hiện các chỉ tiêu chủ yếu như sau: 1. Tình hình thực hiện các chỉ tiêu chủ yếu: 1.1. Chỉ tiêu phát triển kinh tế: - Tốc độ tăng trưởng GDP cả năm ước đạt 9,1% thấp hơn so với năm 2008 và thấp hơn kế hoạch năm 2009 đã đề ra (KH là 11-12%), trong đó khu vực nông- lâm-ngư nghiệp tăng 1,5% (KH là 4-4,5%), khu vực công nghiệp- xây dựng tăng 17,4% (KH là 22-23%), khu vực dịch vụ tăng 7,5% (KH là 7,5-8%). - Kim ngạch xuất khẩu ước đạt 38/42 triệu USD, bằng 90,5% kế hoạch. - Kim ngạch nhập khẩu ước đạt 45,9/37 triệu USD, vượt 24% kế hoạch. - Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội ước đạt 3.770 tỷ đồng (kế hoạch từ 3.700-3.800 tỷ đồng). - Tổng thu ngân sách trên địa bàn ước đạt 680/772 tỷ đồng, bằng 88% kế hoạch; trong đó thu nội địa 520/507 tỷ động, đạt 102,5% kế hoạch; thu từ hoạt động xuất nhập khẩu 160/265 tỷ đồng, bằng 60% kế hoạch. - Tổng chi ngân sách địa phương ước thực hiện 2.867,2/2.170,7 tỷ đồng, đạt 132% kế hoạch. - Sản lượng lương thực có hạt ước đạt 22,05/22,3 vạn tấn, bằng 98,9% kế hoạch. - Diện tích trồng mới cây công nghiệp dài ngày ước đạt 933,7/1.100 ha, bằng 84,9% kế hoạch. - Trồng mới rừng tập trung ước đạt 4.884/4.500 ha, vượt 8,5% kế hoạch. - Sản lượng thủy hải sản ước đạt 24.500/23.000 tấn, bằng 106,5% kế hoạch. 1.2. Chỉ tiêu phát triển xã hội: - Tỷ lệ xã, phường, thị trấn đạt chuẩn phổ cập THCS là 100% (KH là 100%). - Tạo việc làm mới ước đạt 8.500 lao động (KH là trên 8.500 lao động). - Tỷ lệ lao động qua đào tạo so với tổng số lao động ước đạt 30% (kế hoạch là 30%); trong đó đào tạo nghề 21,5% (KH là 21,5%). - Mức giảm tỷ suất sinh ước đạt 0,61%o (KH là trên 0,6%o). - Tỷ lệ hộ nghèo giảm xuống còn 14,9%; giảm 1,9% so với năm 2008 (KH là giảm từ 2,5% trở lên). - Tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng dưới 5 tuổi giảm còn 20,2% (KH là dưới 20,7%). 1.3. Chỉ tiêu về môi trường: - Tỷ lệ độ che phủ rừng năm 2009 đạt 46,2%, bằng 104,5% kế hoạch. - Tỷ lệ dân số thành thị sử dụng nước sạch 77,5%, đạt 100% kế hoạch. - Tỷ lệ dân số nông thôn sử dụng nước hợp vệ sinh 80%, đạt 100% kế hoạch. 2. Những kết quả nổi bật trong năm 2009: 2.1. Mặc dù tăng trưởng kinh tế chưa đạt kế hoạch đề ra nhưng trong bối cảnh kinh tế thế giới suy thoái nghiêm trọng, kinh tế cả nước có mức tăng trưởng thấp thì việc duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế (tính theo GDP) đạt 9,1% là một thành quả đáng khích lệ, thể hiện nỗ lực rất lớn của Đảng bộ và nhân dân trong toàn tỉnh. Tổng sản phẩm trong tỉnh (GDP) theo giá hiện hành đạt 8.189 tỷ đồng; bình quân đầu người đạt 13,7 triệu đồng, tăng 22,3% so với năm 2008. Cơ cấu kinh tế của tỉnh có sự chuyển dịch đáng kể theo hướng tăng tỷ trọng khu vực công nghiệp- xây dựng và khu vực dịch vụ, giảm tỷ trọng khu vực nông- lâm- ngư nghiệp. 2.2. Lĩnh vực nông- lâm- ngư nghiệp, mặc dù gặp nhiều khó khăn nhưng sản xuất vẫn giữ được ổn định và cơ bản hoàn thành mục tiêu kế hoạch đề ra. Kinh tế nông thôn được chú trọng phát triển; kết cấu hạ tầng kinh tế- xã hội nông thôn được quan tâm đầu tư; các chính sách phát triển nông nghiệp và nông thôn được chú trọng và thực hiện có hiệu quả. 2.3. Công nghiệp- xây dựng, dịch vụ là lĩnh vực chịu tác động mạnh và trực tiếp của suy thoái kinh tế nhưng vẫn giữ được tốc độ tăng trưởng khá. 2.4. Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội ước tăng 13,9% so với năm 2008 và đạt kế hoạch đề ra. Đặc biệt, vốn đầu tư phát triển ngân sách địa phương quản lý bằng 210,3% so với kế hoạch được HĐND tỉnh giao đầu năm, thể hiện sự quan tâm hỗ trợ của Trung ương và nỗ lực lớn của tỉnh nhằm tranh thủ mọi nguồn lực để đưa nền kinh tế- xã hội của tỉnh vượt qua giai đoạn đầy khó khăn, thách thức. Các công trình trọng điểm của tỉnh đã được tập trung bố trí vốn, tiến độ thi công khá nhanh; nhiều công trình quan trọng khác đã hoàn thành hoặc đang được tích cực triển khai. Đặc biệt, tỉnh đã khởi công xây dựng 2 dự án lớn đề ra trong kế hoạch 5 năm 2006-2010 là Nhà máy xi măng 60 vạn tấn/năm và Nhà máy bia Hà Nội công suất 15 triệu lít/năm. 2.5. Hoạt động xúc tiến đầu tư, phát triển doanh nghiệp tiếp tục đạt được nhiều tiến bộ. Từ đầu năm đến nay, có 35 dự án trong nước đã được cấp phép đầu tư, tổng vốn đăng ký trên 15.846 tỷ đồng (gấp hơn 3 lần so với cùng kỳ năm 2008). So với cùng kỳ năm 2008, số doanh nghiệp đăng ký chuyển đổi và thành lập mới tăng 43% với tổng vốn đăng ký là 10.272 tỷ đồng, tăng 13,8 lần. 2.6. Lĩnh vực văn hóa- xã hội đạt được những kết quả tích cực. Sự nghiệp giáo dục- đào tạo được quan tâm phát triển cả về quy mô, nội dung, chất lượng, cơ cấu đào tạo và cơ sở vật chất. Mạng lưới y tế, cơ sở vật chất và trang thiết bị y tế được chú trọng đầu tư từng bước nâng cao chất lượng khám chữa bệnh cho nhân dân; hoạt động y tế dự phòng thực hiện có hiệu quả, đặc biệt là phòng chống các dịch bệnh nguy hiểm. Đã tổ chức thành công nhiều hoạt động kỷ niệm các ngày lễ lớn của quê hương, đất nước và các lễ hội, các sự kiện quan trọng của tỉnh để lại ấn lượng tốt đẹp trong lòng bạn bè trong nước và quốc tế. 2.7. Bảo đảm an sinh xã hội, quan tâm chăm lo cho người nghèo, các đối tượng chính sách và những vùng khó khăn được đặc biệt coi trọng và thực hiện có hiệu quả, góp phần ổn định đời sống nhân dân là nét nổi bật trong năm 2009. Bên cạnh đó, một số lĩnh vực xã hội, môi trường đạt được những kết quả tích cực như: hỗ trợ phát triển KT-XH vùng khó khăn, xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc làm, giảm tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng, tăng độ che phủ rừng, giải quyết vấn đề nước sinh hoạt ở thành thị và nông thôn... Đã chủ động thực hiện tốt công tác phòng chống lụt bão; quyết liệt, kịp thời triển khai các biện pháp cứu trợ khẩn cấp khắc phục hậu quả do cơn bão số 9 gây ra. 2.8. Việc thí điểm không tổ chức HĐND huyện, phường được chuẩn bị tích cực, chu đáo và triển khai thực hiện có kết quả. Chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của các cơ quan chuyên môn cấp tỉnh, huyện được rà soát và kiện toàn. Lần đầu tiên tỉnh đã công khai bộ thủ tục hành chính của địa phương, thể hiện một bước tiến mới trong cải cách thủ tục hành chính. Thành phố Đông Hà và thị trấn Cửa Tùng đã được thành lập sẽ góp phần tạo ra động lực mới trong phát triển KT-XH của tỉnh. 2.9. Sức mạnh đoàn kết, thống nhất trong toàn Đảng, toàn dân; tinh thần tự lực, tự cường của các tầng lớp nhân dân và cộng đồng doanh nghiệp đã được phát huy; xã hội đồng thuận; công tác chỉ đạo, điều hành của tỉnh được đổi mới tích cực với sự linh hoạt, nhạy bén, quyết liệt, kịp thời và có hiệu quả trong tổ chức thực hiện kế hoạch đã đề ra, nhất là thực hiện các giải pháp cấp bách của Chính phủ đã đưa nền KT-XH của tỉnh nhà từng bước vượt qua giai đoạn đầy khó khăn, thách thức do suy giảm kinh tế và những thiệt hại nặng nề do thiên tai, dịch bệnh gây ra. 2.10. Quốc phòng-an ninh được giữ vững, tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ổn định; khối đại đoàn kết dân tộc tiếp tục được củng cố và tăng cường. 3. Những khó khăn, trở ngại: Bênh cạnh những kết quả đạt được, tình hình KT-XH của tỉnh trong năm 2009 còn có những khó khăn, hạn chế sau: 3.1. Về khách quan: Khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế giới đã ảnh hưởng sâu sắc đến kinh tế cả nước. Đối với tỉnh ta, suy giảm kinh tế đã làm cho thị trường bị thu hẹp, hoạt động xuất khẩu gặp khó khăn; giá trị sản xuất của toàn ngành công nghiệp tăng chậm so với những năm trước. Đầu tư của khu vực doanh nghiệp và dân cư, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) có mức tăng trưởng thấp, làm ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng tăng năng lực sản xuất, kinh doanh của các ngành kinh tế. Việc thực hiện các chính sách miễn, giảm, giãn thời hạn nộp thuế để kích cầu đầu tư đã làm giảm số thu ngân sách so với dự toán được giao năm 2009. Thiên tai, dịch bệnh, nhất là những thiệt hại nặng nề do cơn bão số 9 và lũ lớn vừa qua ra gây ra đã ảnh hưởng sâu rộng đến tình hình sản xuất và đời sống của nhân dân; tác động tiêu cực đến việc thực hiện các chỉ tiêu về tăng trưởng kinh tế, xóa đói giảm nghèo và phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế- xã hội của tỉnh. 3.2. Về chủ quan: Tiến độ thực hiện và giải ngân kế hoạch vốn đầu tư XDCB có tiến độ nhưng chưa đáp ứng yêu cầu của sự phát triển và chưa phát huy hết các nguồn vốn kế hoạch để đóng góp nhiều hơn vào tăng trưởng kinh tế của tỉnh. Một số chủ đầu tư chưa thực hiện đầy đủ trách nhiệm của mình trong việc triển khai các nguồn đã bố trí theo kế hoạch làm ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện và giải ngân vốn đầu tư của toàn tỉnh. Một số ngành và địa phương chưa phát huy hết tính chủ động, tích cực trong công tác chỉ đạo, điều hành thực hiện nhiệm vụ được giao cũng như thực hiện các giải pháp để kịp thời tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy sản xuất phát triển. Chất lượng nguồn nhân lực chậm được nâng cao; chất lượng giáo dục của học sinh vùng dân tộc thiểu số và ngoài công lập còn thấp so với yêu cầu. Các vụ khiếu kiện tuy có giảm nhưng tính chất vẫn còn phức tạp. Hoạt động của các loại tội phạm diễn biến phức tạp, tính chất, hậu quả khá nghiêm trọng. Hoạt động của tội phạm và tệ nạn ma túy diễn biến phức tạp và gia tăng. Hiệu lực quản lý nhà nước đã được tăng cường nhưng chưa mạnh. Một số sở, ban ngành cấp tỉnh và UBND cấp huyện chưa chấp hành nghiêm chế độ thông tin, báo cáo theo quy định của UBND tỉnh, làm ảnh hưởng đến công tác chỉ đạo, điều hành và tổ chức thực hiện nhiệm vụ phát triển KT-XH năm 2009. Phần thứ hai Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2010
Năm 2010 là năm có ý nghĩa quyết định đối với việc hoàn thành các mục tiêu, nhiệm vụ đã đề ra trong Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV và Nghị quyết HĐND tỉnh về kế hoạch phát triển KT-XH 5 năm 2006-2010. Về cơ bản, tình hình KT-XH năm 2010 của tỉnh có thuận lợi hơn so với năm 2009. Tình hình suy thoái kinh tế thế giới đã thoát đáy và có dấu hiệu phục hồi. Các nguồn lực đầu tư được bổ sung, các công trình, dự án được xây dựng trong năm 2009 và những năm qua sẽ phát huy tác dụng. Các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước mới ban hành (trong đó có một số chính sách hỗ trợ cụ thể đối với tỉnh ta); các chính sách mới của Chính phủ sẽ ban hành nhằm tái cấu trúc nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, nâng cao sức cạnh tranh; các Nghị quyết của HĐND tỉnh về phát triển KT-XH mới ban hành sẽ tạo điều kiện kích thích sự phát triển KT-XH tỉnh trong năm 2010. Năm 2010 cũng là năm nước ta diễn ra nhiều sự kiện chính trị, ngoại giao, lịch sử, văn hóa trọng đại. Việc tổ chức thành công Đại hội Đảng các cấp tiến tới Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, Đại lễ kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long-Hà Nội và các ngày lễ lớn của quê hương, đất nước sẽ là động lực tinh thần to lớn để chúng ta vượt qua khó khăn thách thức, thực hiện thắng lợi kế hoạch phát triển KT-XH năm 2010. Bên cạnh những thuận lợi cơ bản đó, tình hình kinh tế thế giới và trong nước tiếp tục có nhiều khó khăn. Mặc dù kinh tế thế giới sẽ có chuyển biến tích cực hơn nhưng tín hiệu phục hồi vẫn còn yếu, biến động phức tạp và tiềm ẩn nhiều rủi ro, khó lường. Cùng với những khó khăn chung của cả nước; thì nền kinh tế của tỉnh ta, với những yếu kém vốn có và những tác động tiêu cực của tình hình suy giảm kinh tế trong thời gian qua sẽ còn ảnh hưởng nhiều mặt đến sản xuất và đời sống; hậu quả nặng nền của cơn bão số 9 vừa qua và diễn biến phức tạp của tình hình thiên tai, dịch bệnh trong thời gian tới sẽ ảnh hưởng bất lợi đến kế hoạch phát triển KT-XH năm 2010. I. Mục tiêu, nhiệm vụ và các chỉ tiêu chủ yếu: 1. Mục tiêu chung: Tập trung mọi nỗ lực để phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế cao hơn năm 2009, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về sức cạnh tranh và hiệu quả sản xuất, kinh doanh của các thành phần kinh tế. Đẩy mạnh phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng nhằm cải thiện điều kiện thu hút đầu tư và đáp ứng nhu cầu phát triển KT-XH. Chủ động khai thác các lợi thế, đặc biệt là lợi thế của hành lang kinh tế Đông- Tây. Từng bước triển khai thực hiện các chủ trương theo kết luận của Chính phủ và các bộ, ngành TƯ về các chương trình, dự án lớn của tỉnh để tạo động lực cho sự phát triển. Bảo đảm an sinh xã hội, đẩy mạnh xóa đói, giảm nghèo và giải quyết tốt các vấn đề xã hội. Quản lý và sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy chính quyền các cấp; đẩy mạnh cải cách hành chính, thực hành tiết kiệm chống lãng phí, phòng chống tham nhũng. Giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm quốc phòng, an ninh và trật tự, an toàn xã hội. 2. Các chỉ tiêu chủ yếu: a. Các chỉ tiêu kinh tế: - Tổng sản phẩm trong tỉnh (GDP) tăng 11-12% so với năm 2009, trong đó nông- lâm-ngư nghiệp tăng 3-3,5%, công nghiệp-xây dựng tăng 18-20%, dịch vụ tăng 8,5-9%. - Kim ngạch xuất khẩu đạt 50 triệu USD, tăng 31,6% so với ước TH 2009. - Kim ngạch nhập khẩu đạt 45 triệu USD, bằng 98% so với ước TH 2009. - Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội khoảng 4.200-4.300 tỷ đồng, tăng khoảng 11,4-14% so với ước thực hiện năm 2009. - Tổng thu NSNN trên địa bàn 730 tỷ đồng, tăng 7,4% so với ước thực hiện năm 2009; trong đó thu nội địa 545 tỷ đồng; thu thuế XNK: 185 tỷ đồng. - Tổng chi NS địa phương: 2.592,9 tỷ đồng, bằng 90,4% so với ước thực hiện 2009. - Sản lượng lương thực có hạt 22,6 vạn tấn, tăng 2,7% so với ước thực hiện 2009. - Trồng mới rừng tập trung 4.500 ha, bằng 100% so với KH năm 2009. - Trồng mới cây công nghiệp dài ngày: 1.010 ha, tăng 8,2% so với ước thực hiện năm 2009 (trong đó cao su: 800 ha, cà phê: 150 ha, hồ tiêu: 60 ha). - Sản lượng thủy hải sản: 27.000 tấn, tăng 10,2% so với ước thực hiện năm 2009. b. Các chỉ tiêu xã hội: - Giữ vững chuẩn phổ cập THCS tại 100% xã, phường, thị trấn; tiếp tục triển khai đề án phổ cập THPT trên địa bàn tỉnh. - Tạo việc làm mới cho trên 8.500 lao động, bằng ước thực hiện năm 2009. - Tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 32% (tăng 2%), trong đó đào tạo nghề 23,5% (tăng 2%) so với ước thực hiện năm 2009. - Mức giảm tỷ lệ sinh trên 0,6%o so với năm 2009. - Giảm tỷ lệ hộ nghèo 2% so với năm 2009. - Giảm tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng dưới 20%. c. Các chỉ tiêu môi trường: - Tỷ lệ độ che phủ rừng đến cuối năm 2010 đạt trên 47% (tăng 0,8%). - Tỷ lệ dân cư thành thị sử dụng nước sạch 78,5% (tăng 1%). - Tỷ lệ dân cư nông thôn sử dụng nước hợp vệ sinh trên 81% (tăng 1% so với ước thực hiện năm 2009). II. Một số giải pháp tổng hợp chủ yếu 1. Tiếp tục tranh thủ sự hỗ trợ, giúp đỡ của Chính phủ và các bộ, ngành TƯ để tăng nguồn vốn ngân sách đầu tư trên địa bàn tỉnh, nhất là các nguồn vốn trái phiếu Chính phủ dành cho giao thông, thủy lợi, giáo dục, y tế và vận động triển khai thực hiện các dự án ODA. Tập trung chỉ đạo thực hiện tốt các dự án trọng điểm của tỉnh khánh thành và khởi công chào mừng Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XV. Ưu tiên vốn đầu tư cho các công trình trực tiếp góp phần thúc đẩy sản xuất và lưu thông hàng hóa. Tăng cường kiểm tra, thanh tra việc sử dụng vốn đầu tư ngân sách; khắc phục tình trạng đầu tư dàn trải, chống thất thoát, lãng phí; bảo đảm chất lượng công trình. Thực hiện tốt công tác chuẩn bị đầu tư, chuẩn bị thực hiện dự án và nhất là công tác giải phóng mặt bằng. Nâng cao trách nhiệm của chủ đầu tư trong việc quản lý dự án và giải ngân vốn đầu tư. Thực hiện có hiệu quả Nghị định 12/2009/NĐ-CP; Quyết định số 18/QĐ-UBND ngày 11/9/2009 và Quyết định số 20/QĐ-UBND ngày 30/9/2009 của UBND tỉnh về quản lý đầu tư và xây dựng, UBND tỉnh sớm ban hành quy định về giám sát đầu tư cộng đồng trên địa bàn tỉnh theo tinh thần Quyết định số 80/2005-QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Các ngành, địa phương xây dựng kế hoạch cụ thể để đẩy mạnh thực hiện chủ trương xã hội hóa các hoạt động giáo dục, đào tạo, y tế, văn hóa, TDTT theo Nghị quyết số 02/2007/NQ-HĐND. Khuyến khích và tạo mọi điều kiện cho các thành phần kinh tế tham gia đầu tư xây dựng các trường học, bệnh viện và các công trình khác trong lĩnh vực văn hóa xã hội. Tiếp tục thực hiện tốt phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm” và đấu giá quyền sử dụng đất để đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng. Mở rộng các hình thức đầu tư BT, BTO, BOT. Đẩy mạnh công tác xúc tiến đầu tư có trọng tâm, trọng điểm; tập trung vào các chương trình, dự án lớn của tỉnh, các nhà đầu tư có tiềm năng và nguồn lực thực sự. Thực hiện có hiệu quả Nghị quyết 03/2009/NQ-HĐND của HĐND tỉnh về chính sách ưu đãi và hỗ trợ đầu tư trên địa bàn tỉnh. Kiện toàn, nâng cao chất lượng hoạt động của các bộ phận làm công tác xúc tiến đầu tư và nâng cao hiệu quả công tác quảng bá, giới thiệu về tiềm năng và cơ hội đầu tư của tỉnh; xây dựng và công bố rộng rãi danh mục dự án kêu gọi đầu tư trong và ngoài nước. 2 . Tích cực cải thiện môi trường đầu tư, sản xuất, kinh doanh để tạo điều kiện thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Tạo sự thuận lợi và bình đẳng giữa các loại hình doanh nghiệp, các nhà đầu tư; tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tư nhân, nhất là các doanh nghiệp nhỏ và vừa tiếp cận các nguồn lực phát triển. Đẩy nhanh tiến độ xây dựng kết cấu hạ tầng Khu Công nghiệp Nam Đông Hà, Khu Công nghiệp Quán Ngang, Khu Dịch vụ du lịch Cửa Việt- Cửa Tùng, Khu Kinh tế thương mại đặc biệt Lao Bảo, tạo điều kiện cho các nhà đầu tư triển khai thực hiện các dự án. Tích cực hỗ trợ các cho nhà đầu tư để triển khai nhanh các dự án, nhất là việc cung cấp các dịch vụ như: điện, nước, thông tin liên lạc... Thực hiện có hiệu quả cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”. Tăng cường công tác quản lý thị trường; chống buôn lậu, chống gian lận thương mại và hoạt động đầu cơ. Thực hiện đồng bộ các giải pháp kiềm chế tốc độ tăng giá, ổn định thị trường tạo điều kiện phát triển sản xuất, kinh doanh góp phần thực hiện tốt mục tiêu kiềm chế lạm phát của Chính phủ. Thực hiện đầy đủ, kịp thời các chính sách của Nhà nước về hỗ trợ phát triển sản xuất, kinh doanh như: hỗ trợ giống cây trồng, vật nuôi; hỗ trợ khai hoang phát triển sản xuất; hỗ trợ vận chuyển hàng thiết yếu phục vụ miền núi; hỗ trợ khắc phục thiệt hại do thiên tai, dịch bệnh gây ra trong sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp. Thực hiện có hiệu quả một số chính sách hỗ trợ, khuyến khích phát triển kinh tế tập thể giai đoạn 2009-2015 đã được HĐND tỉnh ban hành. Tập trung mọi nỗ lực khắc phục hậu quả thiên tai, nhất là những thiệt hại do cơn bão số 9 gây ra, hỗ trợ thiết thực cho nhân dân khôi phục sản xuất, ổn định đời sống. Trong đó, tập trung vào các lĩnh vực kết cấu hạ tầng KT-XH (giao thông, thủy lợi, trường học, cơ sở y tế, các công trình nước sạch ở vùng miền núi...); khôi phục và phát triển cây công nghiệp dài ngày; tích cực chuyển đổi cơ cấu cây trồng đối với diện tích đất lúa bị bồi lấp nặng. Đồng thời, khẩn trương chuẩn bị đầu tư thực hiện dự án đã có chủ trương của TƯ về di dân tại chỗ vùng trũng Hải Lăng, Triệu Phong; rà soát và bổ sung vào quy hoạch tổng thế theo Quyết định 193/QĐ-TTg trên cơ sở đó lập quy hoạch chi tiết và lập dự án di dân, tái định cư vùng lũ quyết xã Húc Nghì và một số xã thuộc huyện Đakrông bảo đảm ổn định đời sống và sản xuất lâu dài cho nhân dân. 3. Đẩy nhanh tiến độ xây dựng và nâng cao chất lượng công tác quy hoạch, đảm bảo khai thác hiệu quả các tiềm năng, lợi thế của tỉnh. Hoàn thành và trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch tổng thế phát triển KT-XH tỉnh đến năm 2020 làm cơ sở để xây dựng kế hoạch 5 năm 2011-2015 và văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XV; hoàn thành quy hoạch tổng thể phát triển KT-XH đến năm 2020 của các huyện, thành phố, thị xã phục vụ cho xây dựng kế hoạch 5 năm 2011-2015 và văn kiện Đại hội Đảng bộ các cấp. Thông qua Đề án Quy hoạch, đầu tư cảng biển Mỹ Thủy, Khu kinh tế Đông Nam Quảng Trị và sân bay lưỡng dụng Quảng Trị để đề nghị các bộ, ngành TƯ và Chính phủ đưa vào hệ thống quy hoạch chung của quốc gia. Tiến hành rà soát, điều chỉnh, bổ sung các quy hoạch phát triển các ngành, lĩnh vực, sản phẩm cho giai đoạn 2011-2015 làm cơ sở cho xây dựng kế hoạch 5 năm 2011-2015 của các ngành. Tăng cường công tác quản lý quy hoạch, bảo đảm việc bố trí vốn đầu tư theo đúng quy hoạch đã được phê duyệt; thực hiện nghiêm quy định của Nhà nước về công bố công khai các quy hoạch. 4. Chú trọng phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Thực hiện tốt Chương trình hành động của Tỉnh ủy thực hiện Nghị quyết TƯ7 (khóa X) về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước. UBND tỉnh tăng cường chỉ đạo các ngành, địa phương xây dựng kế hoạch cụ thể để thực hiện có hiệu quả Nghị quyết của HĐND tỉnh về đào tạo nguồn nhân lực của tỉnh (trọng tâm là đào tạo nghề cho người lao động) giai đoạn 2007-2015. Tập trung chỉ đạo thực hiện tốt việc đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp giáo dục ở các cấp học, bậc học; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và học ngoại ngữ trong các nhà trường; đẩy nhanh tiến độ xây dựng trường, lớp đạt chuẩn. Mở rộng quy mô, nâng cao năng lực và chất lượng đào tạo chuyên nghiệp và dạy nghề đáp ứng nhu cầu sử dụng lao động trên địa bàn. Thực hiện tốt chủ trương cho học sinh, sinh viên là con em các gia đình chính sách, hộ nghèo, hộ cận nghèo được vay vốn để đi học. Thực hiện Đề án về sửa đổi, bổ sung chính sách khuyến khích đào tạo, thu hút và sử dụng cán bộ; chính sách thu hút, đào tạo, đãi ngộ đối với bác sĩ, dược sĩ đại học và cán bộ y tế cơ sở đã được HĐND tỉnh ban hành. 5. Tăng cường đầu tư ngân sách cho các mục tiêu an sinh xã hội, trong đó chú trọng phát triển các lĩnh vực văn hóa, xã hội, giáo dục, y tế, xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc làm; bảo đảm phát triển kinh tế gắn liền với việc giải quyết ngày càng tốt hơn các vấn đề văn hóa-xã hội. Nhà nước tăng cường đầu tư và đa dạng hóa các nguồn lực, các phương thức giảm nghèo, hỗ trợ và khuyến khích người nghèo chủ động vươn lên thoát nghèo, bảo đảm giảm nghèo vững chắc. Triển khai mạnh mẽ và có hiệu quả chương trình hỗ trợ giảm nghèo, trọng tâm là hỗ trợ đầu tư phát triển sản xuất, hỗ trợ đời sống, hướng dẫn kỹ thuật sản xuất, giải quyết vốn vay ưu đãi, hỗ trợ đào tạo nghề... Đẩy mạnh thực hiện chương trình xây dựng nhà ở cho người nghèo và nhà ở xã hội. Thực hiện các chính sách hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số, các đối tượng chính sách, hộ nghèo, hộ cận nghèo, ngư dân và các vùng khó khăn, vùng bị thiên tai. UBND các huyện, thành phố, thị xã tăng cường chỉ đạo thực hiện kịp thời các chính sách trợ giúp các đối tượng bảo trợ xã hội theo Nghị định 67/2007/NĐ-CP. Làm tốt công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi thu hồi đất. Điều chỉnh lương tối thiểu chung và lương tối thiểu trong các doanh nghiệp theo chủ trương của Chính phủ. Chủ động phòng chống, giảm thiểu thiệt hại do thiên tai gây ra và tìm kiếm cứu nạn. Thực hiện đồng bộ các giải pháp để giảm số vụ và số người chết, bị thương do tai nạn giao thông. Tăng cường năng lực thực thi các chính sách an sinh xã hội cho cán bộ cơ sở gắn với việc thực hiện cơ chế giám sát của các tổ chức trong hệ thống chính trị và của người dân, bảo đảm các chế độ, chính sách được thực hiện có hiệu quả. 6. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính công, trọng tâm là rà soát cắt bỏ các thủ tục hành chính rườm rà. Nâng cao vai trò và hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước. Hoàn thành chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001-2010. Cắt giảm tối thiểu 30% các quy định hiện hành về thủ tục hành chính. Tổ chức kiểm soát chặt chẽ việc ban hành và thực hiện các thủ tục hành chính ở tất cả các cấp chính quyền. Đẩy mạnh thực hiện Chính phủ điện tử và ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của các cơ quan nhà nước. Đẩy mạnh, đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất, đúng trình tự, thủ tục theo luật định đối với công tác xây dựng, thẩm định, kiểm tra, rà soát văn bản quy phạm pháp luật của HĐND, UBND các cấp; tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, trợ giúp pháp lý, công chứng, chứng thực, hành chính và bổ trợ tư pháp, thực hiện cải cách tư pháp theo đúng lộ trình. Nâng cao chất lượng công tác điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Thực hiện nghiêm Luật Cán bộ, công chức, Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước; nâng cao năng lực, phẩm chất, tinh thần trách nhiệm và đạo đức nghề nghiệp của cán bộ công chức. Tăng cường dân chủ, đổi mới đồng bộ và nâng cao chất lượng công tác cán bộ. Phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng, bổ nhiệm, đề bạt được cán bộ có đức, có tài, trẻ và cán bộ nữ vào các vị trí phù hợp. Chuẩn bị tốt nhân sự cho Đại hội Đảng và xây dựng chính quyền các cấp. Thực hiện tốt Luật Phòng, chống tham nhũng và Chiến lược quốc gia phòng, chống tham nhũng đến năm 2020. Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, giám sát; kiên quyết xử lý nghiêm minh theo đúng quy định của pháp luật đối với các hành vi, vụ việc tham nhũng. Phát huy vai trò của nhân dân, các đoàn thể chính trị- xã hội, của báo chí trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu. Nâng cao chất lượng, hiệu quả giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân và xử lý các vụ việc bức xúc trên địa bàn. Tăng cường thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở; xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước tạo động lực thúc đẩy và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh; xây dựng xã hội văn minh, lành mạnh; bảo vệ vững chắc chủ quyền và an ninh Tổ quốc. Xây dựng nền quốc phòng toàn dân, nền biên phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân vững mạnh. Bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; đẩy mạnh tấn công truy quét tội phạm, nhất là trong dịp Tết Nguyên đán Canh Dần; thực hiện tốt kế hoạch, phương án bảo vệ Đại hội Đảng các cấp, bảo vệ an toàn các hoạt động chính trị, đối ngoại và các lễ hội trên địa bàn tỉnh. Đẩy mạnh và phát huy hiệu quả phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc. Phối hợp đấu tranh ngăn chặn có hiệu quả đối với các hoạt động: buôn lậu, gian lận thương mại, buôn bán và vận chuyển ma túy, xuất nhập cảnh trái phép. Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng xã, phường, thị trấn trong sạch, vững mạnh, không có tệ nạn xã hội gắn với cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư. 7. Tiếp tục chỉ đạo đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước rộng rãi trong các ngành, các cấp để góp phần thực hiện thắng lợi kế hoạch kinh tế- xã hội và quốc phòng- an ninh trong tình hình mới.