Gặp những chiến sĩ giao liên chiến trường Quảng Trị 1972
(QT) - Góp phần làm nên những chiến công vang dội của quân và dân ta trên chiến trường Quảng Trị năm 1972, tiến tới ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, có sự cống hiến, hy sinh thầm lặng mà kiên cường, quả cảm của lực lượng giao liên. Ghi nhận, tôn vinh công lao của lực lượng này, theo đề nghị của Bưu điện tỉnh, UBND tỉnh đã tặng Kỷ niệm chương “Chiến sĩ bảo vệ Thành Cổ năm 1972” cho 39 chiến sĩ giao liên Quảng Trị thuộc lực lượng giao liên Triệu Phong, Hải Lăng thời chống Mỹ, cứu nước đã có thành tích xuất sắc trong chiến đấu và phục vụ chiến đấu bảo vệ Thành Cổ năm 1972. Ngày 24/11/2011, Bưu điện tỉnh đã tổ chức lễ trao tặng Kỷ niệm chương “Chiến sĩ bảo vệ Thành Cổ năm 1972” cho các chiến sĩ giao liên này. Trong không khí quê hương rộn rã hướng đến kỷ niệm 40 năm ngày giải phóng Quảng Trị, 40 năm sự kiện 81 ngày đêm bảo vệ Thành Cổ Quảng Trị, tôi đã tìm gặp các chiến sĩ giao liên Quảng Trị để được hiểu và cảm một cách sâu sắc về công việc đặc thù của các anh trong chiến tranh, để cùng ôn lại một thời hoa lửa bi tráng, hào hùng trên chiến trường Quảng Trị 1972 của lực lượng giao liên.
 |
Đoàn giao liên khu vực Triệu - Hải dâng hương tại Thành Cổ Quảng Trị - Ảnh: BÌNH MINH |
Tôi điện hẹn gặp anh Nguyễn Thanh Tịnh ở khu phố 4, phường 3, thị xã Quảng Trị. Dường như cuộc điện của tôi đã bắt đúng những mạch nguồn ký ức sâu thẳm trong anh về một thời kỳ không thể nào quên, về bao đồng đội kiên cường, quả cảm nên đúng ngày hẹn, anh đã rủ thêm các anh Nguyễn Văn Xá ở Tích Tường, Hải Lệ; Nguyễn Thanh Tâm ở Như Lệ, Hải Lệ, thị xã Quảng Trị; Lê Đình Xê ở Đại An Khê, Hải Thượng, Hải Lăng và chị Nguyễn Thị Thái ở Đại An Khê, Hải Thượng, Hải Lăng cùng đến nhà anh trò chuyện. Mạch chuyện cứ thế tuôn trào, lúc vút bổng trong niềm tự hào, lúc trầm xuống trong nỗi nghẹn ngào. Lực lượng giao liên thời chiến không chỉ làm nhiệm vụ chuyển công văn, thư từ, nghĩa là làm công việc giao bưu đơn thuần mà đặc biệt còn làm nhiệm vụ đón đưa bộ đội vào chiến trường. Nói về vai trò của công tác giao liên, anh Xê khẳng định: “Giao liên là huyết mạch, mạch tắc là thất bại, mạch thông là chiến thắng”. Vai trò của giao liên càng cao, trách nhiệm càng lớn, chuyện sinh tử thách thức mạng sống giao liên càng gay gắt. “Làm giao liên là coi như không biết đến cái chết. Trải bao vất vả, gian khổ, ác liệt, còn sống sót là hạt gạo trên sàng - Anh Tâm kể - Địch biết, khi bộ đội về là có giao liên đưa đi. Khi trở lại hậu cứ, chỉ có mình giao liên thôi, địch thường phục bắn. Do giao liên chết nhiều, nên có lúc cấp trên đã lấy thêm chiến sĩ đạo lộ của Tỉnh đội bổ sung cho giao liên”. Anh Xá còn nhớ mãi một tình huống suýt chết trong gang tấc. Hôm đó, anh Xê đi công tác, anh Xá ở một mình dưới hầm. Lúc anh Xê về đến sát hầm, quay lưng lại nhìn đã thấy địch mặc áo rằn ri phục sát hầm rồi. Thì ra, địch đã “đánh hơi”, phát hiện được chỗ các anh vẫn thường rửa, vo gạo nên tìm cách truy lùng. Anh Xê chỉ về chậm có một phút là địch đã “gặp” anh Xá rồi. Anh Xê chạy vô cửa trước báo cho anh Xá biết: “Địch đến đặc rồi tề”. Thế rồi, hai anh thoát nhanh ra cửa sau, liền đó, chỉ trong thoáng chốc, địch đã ném lựu đạn vào cửa hầm. Chuyện tác nghiệp của giao liên thời chiến quả thật éo le và gần như đơn độc. Khi đưa cả đoàn quân đi, khi đi thì đông nhưng khi trở về, chỉ có hai người cho một mũi giao liên. Khi đưa công văn, nguyên tắc là một người đi trước, một người đi sau, người đi trước mang súng, người đi sau mang công văn. Nếu người đi trước bị địch bắn chết, người đi sau phải tìm cách chạy thoát, nếu bị bắt thì phải nuốt công văn hoặc xé hủy. Làm giao liên là chạy đua với thời gian. Khoảng 5, 6 giờ sáng, các chiến sĩ giao liên đã ra khỏi cửa rừng để đưa bộ đội về, 12 giờ đưa bộ đội đến chỗ giao nhận quân theo quy định, 1 giờ sáng trở lại với rừng. “Thường khi nhận được công văn là đi trong đêm - Anh Xá kể, giọng đầy cảm khái khi nhắc về những thời khắc cảm tử - Có chết cũng đi, không như bây giờ, túc tắc buổi sáng mới đi”. Đường giao liên đi là đường bí mật, đường riêng biệt. Cho nên phải che dấu lối đi. Anh Tịnh kể: “Khi vô hậu cứ, mình phải ngụy trang lối đi, lấy lá khô khỏa lại, che dấu chân đi”. Chị Thái kể về một cách “sáng tạo” khác: “Khi bộ đội đi từ rừng về, vượt qua Quốc lộ 1, cơ sở của mình được báo trước đã đem chiếu ra trải cho bộ đội băng qua đường, khỏi để lộ dấu vết”. Để giữ đúng nguyên tắc bí mật về đường giao liên, anh Xá cho biết, có lúc anh đã từ chối, không dẫn tù binh qua đường giao liên: “Dạo đó, bộ phận ở Quảng Hà bắt được 2 tù binh. Các anh đưa vào chỗ tôi, giao cho tôi. Tôi nói các anh bắt tù binh là các anh đem đi, chứ không đi đường của tôi được, vì đường của tôi là để đưa cán bộ, đưa công văn”. Các chiến sĩ giao liên chiến trường Quảng Trị năm 1972 đã dốc sức, dốc lòng tập trung phục vụ cho hai sự kiện chấn động lòng người: tiến công anh dũng, giải phóng Quảng Trị ngày 1/5/1972 và chiến đấu kiên cường 81 ngày đêm bảo vệ Thành Cổ Quảng Trị. Những ngày Quảng Trị náo nức với khí thế giải phóng, lực lượng giao liên vừa tăng cường đưa công văn hỏa tốc cho các đơn vị bộ đội, vừa đưa cán bộ về tiếp quản thị xã giải phóng. Nhắc lại chuyện tù chính trị được giải thoát khỏi nhà lao Quảng Trị nhờ có chiến dịch giải phóng thị xã Quảng Trị tháng 5/1972, anh Xê đắc ý kể chuyện tháo còng cho tù chính trị: “Năm 1972, Quảng Trị giải phóng, địch trà trộn với dân chạy vào Huế. Địch chở tù chính trị ở nhà lao Quảng Trị vào Huế, ta chặn tại miếu đôi Hải Lăng. Tôi dẫn đoàn xe tăng bộ đội để đánh chặn xe địch. Ta bắn chặn được. Cầu Dài Hải Lăng sập. Tù chính trị được mở còng chạy thoát lên rừng. Tôi đã tháo còng cho tù chính trị. Anh em tù bị sưng tay, còng cứng mở không được. Tôi lấy sợi lạt mỏng chêm vô còng, để chèn cóc còng lại (như cóc của líp xe đạp), khiến cho còng trượt ra theo sợi lạt, thế là tháo còng”. Khi địch phản kích Quảng Trị năm 1972, lực lượng giao liên đã tham gia đưa dân ra vùng giải phóng và đưa bộ đội vào chiến đấu đánh trả địch. Lực lượng giao liên còn làm nhiệm vụ đưa bộ đội bị thương về các trạm phẫu thuật ở thôn Tân Mỹ, xã Hải Lệ, ở bến mụ Quốc, Hải Phú… để cứu chữa. Nhắc đến lực lượng giao liên Quảng Trị của “một thời hoa lửa”, mọi người thường nhắc đến anh Nguyễn Xuất Hiện ở thôn Cao Hy, Triệu Phước, Triệu Phong, một “hiện tượng” đặc biệt, một nhân vật độc đáo của giao liên Quảng Trị 1972. Tháng 5/1972, tỉnh Quảng Trị được giải phóng, anh Hiện làm giao liên cho đơn vị an ninh thị Quảng Hà. Lúc địch bắt đầu phản kích vào thị xã Quảng Trị, đơn vị an ninh Quảng Hà đã trả anh Hiện về lại với gia đình vì anh còn nhỏ, chỉ mới 15 tuổi. Thế nhưng chú bé 15 tuổi này đã không chịu lui về vùng hậu tuyến mà đã vào thị xã Quảng Trị để xông pha lửa đạn cùng bộ đội trong 81 ngày đêm chiến đấu kiên cường bảo vệ Thành Cổ Quảng Trị. Tôi đã gặp anh Hiện năm 1989 ở quê anh. Anh đã vào Nam sinh sống và hiện đang ở Bà Rịa-Vũng Tàu. Tôi giở lại cuốn sổ tay năm 1989 của mình, thấy còn ghi lại lời kể của anh Hiện về quãng đời thiếu niên gan sắt dạ vàng của anh: “Lúc 15 tuổi, tôi đã ở với bộ đội. Phụ giúp bộ đội nấu cơm, đeo mặt nạ cho thương binh. Làm giao liên, mang đạn vào cho quân của ông Vũ Trung Thướng (Chính trị viên Đại đội 5, Tiểu đoàn 2, Trung đoàn 48, Sư đoàn 320 B) đánh ở ngã ba Long Hưng. Vác hòm đạn cối 60 vào cho bộ đội Sư đoàn 320 B, dẫn theo một trung đội tân binh bổ sung đi từ ngoài cánh đồng Cổ Thành vào gần cầu Ba Bến. Nhận thịt heo về cho bộ đội, mặc cho pháo dập và đuổi”. Tôi còn ấn tượng mãi với cái tên đầy ý nghĩa mà anh Lê Xuân Yến, Chính trị viên Tiểu đoàn 2, Trung đoàn 48, Sư đoàn 320 B đã đặt cho anh là Nguyễn Xuất Hiện (anh vốn có họ tên là Nguyễn Văn Hiến). Cái tên đó đã ghi nhận sự xuất hiện đầy tình nguyện và quả cảm của anh trên chiến trường ác liệt. Ngày 30/8/1972, anh Hiện bị thương do mảnh đạn M79 bắn vào đùi và ngực, phải về điều dưỡng ở tuyến sau. Lúc này, nhiều nhà báo, nhà thơ đã đến gặp anh tìm hiểu, viết bài, làm thơ, viết truyện tranh ca ngợi tấm gương “Xuất Hiện” cho tuổi trẻ học tập. Những chiến công của anh đã được ghi nhận, anh đã được tặng Huy chương Kháng chiến chống Mỹ cứu nước hạng Ba, Huy chương Giải phóng, danh hiệu dũng sĩ diệt Mỹ, Kỷ niệm chương “Chiến sĩ bảo vệ Thành Cổ năm 1972”. “Xuất Hiện” và nhạy cảm, mưu trí, sáng tạo, đó chính là tài năng, bản lĩnh, là phẩm chất của giao liên chiến trường Quảng Trị 1972. Tôi đã được chia sẻ và thấu tỏ hơn về điều này, khi trò chuyện cùng anh Trần Xuân Ứng, chiến sĩ giao liên Triệu Phong thời đánh Mỹ, hiện ở tại khu phố 2, phường Đông Lương, Đông Hà. Có lần anh Ứng cùng một chị giao liên đi từ Gia Độ qua Phú Thành, Triệu Đại, Triệu Phong. Đến Phú Thành, anh thấy có ba vị mang sắc phục bộ đội nhưng dáng vẻ đầy khả nghi. Bám theo ba vị này, anh phát hiện trên lối đi có mấy mẩu thuốc lá Ru by rơi vãi. Đúng đây là biệt kích địch giả dạng bộ đội rồi. Anh Ứng liền báo cho đơn vị bộ đội đang đóng ở đây biết. Thế là quân ta kịp thời vây bắt, tóm gọn ba tên biệt kích kia. Nói về cách làm sáng tạo để chuyển công văn, tài liệu nhanh chóng, thuận tiện, anh Ứng kể: “Đoạn sông Thạch Hãn ở ngã ba Gia Độ khá rộng. Để khỏi mất công bơi qua sông nhiều lần, chúng tôi chỉ bơi một lần, đưa dây dù pháo sáng nối với bờ bên kia, dĩ nhiên, bờ bên kia phải thuộc vùng an toàn của ta. Hai bên giữ hai dây nối nhau theo vòng. Khi cần giao tài liệu, chúng tôi cột cái bọc tài liệu vào dây để kéo, thế là bờ bên kia nhận được. Bên nhận ký nhận đầy đủ vào sổ và chuyển sổ lại cho bên giao”. Khi tôi hỏi về mưu mẹo cốt tử của công tác giao liên thời chiến là làm sao xác định đường đi đảm bảo đúng hướng, an toàn, chắc thắng, anh Ứng tâm sự: “Làm giao liên là đạp đường mà đi. Ban ngày không lạc, nhưng ban đêm có khi lạc vào vùng địch, nghe tiếng là mình biết và tránh, đi đường khác. Để xác định hướng đi, ban đêm mình nhìn sao, nhìn cây hoặc nhìn chỗ mà mình đã quen thuộc. Hoặc định hướng theo gió, mùa hè gió Lào phía Tây thổi từ Trường Sơn qua, do đó mình nhận ra hướng Đông. Cứ đi dần thành thói quen”. Vâng, cứ đi, “ Đường tôi đi dài theo đất nước ”, “ những bước đi đi theo tương lai ” như lời của một bài ca hào khí hát về đời giao liên. Thế hệ giao bưu của quê hương Quảng Trị, của đất nước thời đổi mới giờ đây đang cất bước đi lên từ dấu chân gian khổ mà xông pha dạn dày của thế hệ giao liên “một thời hoa lửa”, đi tới tương lai xán lạn đã được mở ra từ quá khứ vẻ vang, đi cho đất nước vươn rộng, vươn dài ra biển lớn hội nhập và phát triển. NGUYỄN HOÀN