Sông Đuống đưa ông về...Kinh Bắc
(QT) - Còn nhớ một chiều cuối Đông năm 1993 trên đất Huế, tôi được cùng nhà thơ Hoàng Cầm ngồi bên một quán cà phê nằm cạnh sông Hương. Trước mặt là cầu Tràng Tiền và dòng sông bình thản đưa con nước về xuôi. Gió cứ mơn man thổi qua triền cỏ ven sông mượt mà như cánh lúa tựa buổi hoàng hôn Kinh Bắc lúc trời lạnh giá nhưng trữ tình, se sắt và quyến rũ. Tôi buột miệng đọc: ""Sông Đuống trôi đi một dòng lấp lánh, nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ ...". Lúc ấy nhà thơ Hoàng Cầm mới thật sự cởi mở tấm lòng với cậu sinh viên văn khoa đã mê thơ ông. Đó là lần gặp gỡ hiếm hoi và cũng là kỷ niệm khó quên của tôi với nhà thơ Hoàng Cầm cùng nhà thơ Phùng Quán vào Huế ""rong chơi"" theo hành trình đi bộ của nhà văn Hòa Vang theo dặm dài đất nước. Ấn tượng đầu tiên đối với tôi chính là giọng nói đậm đà xứ Kinh Bắc nghe thật truyền cảm của ông. Đặc biệt là khi nghe ông đọc thơ, âm điệu bay bổng của những vần thơ như rút ra từ gan ruột của nhà thơ nghe thật mượt mà: ""Váy Đình Bảng buông chùng cửa võng/ Chị thẩn thơ đi tìm/ Đồng chiều/ Cuống rạ ..."" ( Lá Diêu Bông ).
 |
Nét đẹp vùng quê Kinh Bắc. Ảnh: Đ.T.T |
Đây là những câu thơ mở đầu trong tuyệt tác thơ nổi tiếng có tên ""Lá Diêu Bông" đã được nhà thơ ""hồi quang"" sau mười mấy năm gặp lại người chị xứ Kinh Bắc lúc nhà thơ mới 8 tuổi. Đó là một mối tình mà nhà thơ đã có lần tâm sự: ""Trời bắt tôi phải yêu sớm", là mối tình đầu đời của Hoàng Cầm, là giấc mơ ngọt ngào nhưng cũng là vị thuốc đắng khi ông chợt tỉnh giấc mà dư âm của nó là những vần thơ mê hoặc lòng người. Xuất phát từ một tình yêu đơn phương chị đã đưa ra lời thách đố: "" Đố ai tìm được lá Diêu Bông/Từ nay ta gọi làm chồng.. .". Vậy mà nhà thơ đã mãi miết đi tìm...cho đến khi: ""Từ thuở ấy em cầm chiếc lá/Đi đầu non cuối bể/Gió quê vi vút gọi/Diêu Bông hời/...ới Diêu Bông ." ( Lá Diêu Bông ). Có thể nói cùng với ""Bên kia sông Đuống"" thì ""Lá Diêu Bông"" là một bài thơ đã ""tạc"" vào thi đàn tên tuổi Hoàng Cầm. Nhưng trong lần gặp ấy, chính ông đã chia sẻ với tôi về bài hát ""Sao em nỡ vội lấy chồng" của nhạc sĩ tài hoa Trần Tiến. Ông bảo: ""Thật buồn khi bài hát đó đã ""phá vỡ"" cái tứ của bài thơ...". Đành rằng đó là một tình yêu, là khúc ca buồn thở than về thân phận, nhưng tôi hiểu và nhận ra ""khoảng cách"" khó có thể hòa nhập giữa bài thơ và bản nhạc. Có một điểm khác biệt là hầu hết thơ Hoàng Cầm thường hoài niệm về những cảm xúc, những kỷ niệm đã trôi xa: ""Hôm nay/ Họ xa nhau từ lâu/Còn lại tiếng mưa ngâu/Gõ nhịp gianh thềm đêm vắng/Và một giọng thơ trang trải nợ ban đầu ( Bâng khuâng ) Hay ""Quan đốc đồng áo đen nẹp đỏ/ Thả tịnh vàng cưới chị/ Võng mây trôi/Em đứng nhìn theo, em gọi đôi ( Cây Tam Cúc ). Huyền thoại về sông Đuống “nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ” có thể không có thật trong suy nghĩ nhiều người nhưng với thi sĩ Hoàng Cầm, sông Đuống nằm nghiêng có trong tâm khảm của ông. Bởi con sông đối với nhà thơ không còn là dòng nước hiện hữu mà trở thành dòng sông cổ tích chảy vào tâm tưởng, tưới tắm cuộc đời nhà thơ ví như ""Sông chảy vào lòng..." của Thu Bồn vậy. Bài thơ “Bên kia sông Đuống” đã đưa chàng trai Bùi Tằng Việt (tên thật của nhà thơ) chỉ mới 26 tuổi lên hàng thi sĩ nổi tiếng nhất trong kháng chiến chống Pháp. Thời gian cứ trôi qua, có biết bao thế hệ người Việt đã nâng niu, được sưởi ấm bằng những câu thơ nồng nàn và thổn thức: “ Ai về bên kia sông Đuống/ Cho ta gửi tấm the đen/ Mấy trăm năm thấp thoáng mộng bình yên ... Hay ""Ai về bên kia sông Đuống/ Có nhớ từng khuôn mặt búp sen/ Những cô hàng xén răng đen/ Cười như mùa thu tỏa nắng …"" Thơ Hoàng Cầm mượt mà và quyến rũ của các làn điệu dân ca quan họ, lại có cả sự ẩn ý của tâm thức luôn hướng về những điều không có thực. Nên thơ ông thường rất dễ đồng cảm nhưng cũng thật khó cắt nghĩa. “ Nghé cây bài tìm hơi tóc ấm, Em đừng lớn nữa chị đừng đi, Tướng sĩ đỏ đen chui sấp ngửa, ổ rơm thơm đọng tuổi đương thì .( Cây tam cúc ), “ Ngày cưới chị, em tìm thấy lá/ Chị cười xe chỉ ấm trôn kim/ Chị ba con em nhìn thấy lá,/Xoè tay úp mặt chị không nhìn ” ( Lá diêu bông )... Bao nhiêu năm lặng lẽ sống trên một gác xép ở Hà Nội, nhưng kỳ thực hồn thơ Hoàng Cầm luôn hướng về Kinh Bắc, lặng thầm tìm một mối giao cảm mà chỉ có ông mới là người hiểu rõ nhất. Mấy năm trở lại đây, liên tiếp những tập thơ như “Về Kinh Bắc”, “Lá diêu bông”, “Mưa Thuận Thành”, “99 tình khúc” của Hoàng Cầm ra mắt khiến độc giả không khỏi bất ngờ. Một giọng thơ đầy sức quyến rũ bởi cái nội tâm sâu thẳm và chiều sâu văn hoá của địa danh Kinh Bắc rực rỡ hiện lên. Danh mục tác phẩm của Hoàng Cầm, kể từ những kịch thơ Hận Nam Quan (1942), Kiều Loan (1942) đến nay, kể cả thơ, văn và kịch đã có hàng chục đầu sách được tái bản và xuất bản, một số lượng tác phẩm không phải ít đối với người theo nghiệp văn chương. Nhưng quan trọng hơn, chất lượng tác phẩm đã nâng Hoàng Cầm lên ngôi vị những nhà thơ hàng đầu của nền thơ ca hiện đại Việt Nam. Ông là một trong số ít những thi sĩ lớn sống hết mình với thơ, trân trọng nâng thơ hơn chính bản thân mình…Năm 2007, ông được tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật. Một ngày đầu tháng 5/2010, người yêu thơ Việt Nam sửng sốt khi nghe tin ông đã: "C úi lạy mẹ con trở về Kinh Bắc/ Chiều xưa giẻ quạt voi lồng/ Thân cau cụt vẫy đuôi mèo trắng mốc/ Chuồn chuồn khiêng nắng sang sông..." Với vóc dáng mảnh mai và mái tóc bạc trắng, Hoàng Cầm nhẹ nhàng ra đi ở tuổi 89 với nhiều hiển vinh nhưng cũng lắm thiệt thòi. Người thơ lãng du, phiêu bồng của ông đã cảm hóa chúng ta bằng những vần thơ đắm đuối. Và tôi tin sông Đuống sẽ mãi mãi chuyên chở hồn thơ Hoàng Cầm chảy vào tâm thức độc giả như đã từng vỗ về miền Kinh Bắc cổ kính quê hương ông. Hồ Nguyên Kha