Hé lộ thủ đoạn và chiêu thức quay vòng tiền vay từ vụ án “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”
(QT) - Ngày 14/6/2017 Công an tỉnh Quảng Trị ra Quyết định số 14 khởi tố vụ án: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và Quyết định số 49 khởi tố bị can đối với Nguyễn Thị Lan Hương, hộ khẩu ở 12/36 Đặng Tất, thành phố Đông Hà về tội: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo đơn tố cáo của các bị hại. Tuy nhiên, Hương được tại ngoại vì đang mang thai.

Hé lộ thủ đoạn và chiêu thức quay vòng tiền vay từ vụ án “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”

(QT) - Ngày 14/6/2017 Công an tỉnh Quảng Trị ra Quyết định số 14 khởi tố vụ án: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và Quyết định số 49 khởi tố bị can đối với Nguyễn Thị Lan Hương, hộ khẩu ở 12/36 Đặng Tất, thành phố Đông Hà về tội: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo đơn tố cáo của các bị hại. Tuy nhiên, Hương được tại ngoại vì đang mang thai.

Từ đó đến nay, các cơ quan tố tụng đã tiến hành điều tra làm rõ động cơ, mục đích và các thủ đoạn huy động tiền vay dẫn đến vỡ nợ của Hương. Dư luận băn khoăn bằng hình thức nào mà trong khoảng thời gian ngắn, Hương đã huy động được một số tiền hàng chục tỷ đồng và câu hỏi đặt ra là những đồng tiền huy động được “tồn tại” ở đâu, được sử dụng vào mục đích gì? Có hay không một “thế lực ngầm” đã giúp đỡ, hỗ trợ Hương xây dựng được “lòng tin” với nhiều người để chấp thuận cho Hương vay một khoản tiền quá lớn so với khả năng và tiềm lực tài chính của đôi vợ chồng trẻ này.

Nhật ký ghi chép về các khoản vay, trả của Nguyễn Thị Lan Hương

Đã hơn một năm trôi qua nhưng nhiều người dân ở thị xã Quảng Trị và thành phố Đông Hà chưa hết bàng hoàng khi nghe tin Hương đến cơ quan công an trình báo vỡ nợ. Theo đơn tố cáo, trong thời gian từ cuối năm 2015 đến tháng 7/2016 chị Văn Thị Kim Nhung, ở khu phố 1, phường 2, thị xã Quảng Trị là người đã cho Lê Thị Hồng Ân, Võ Lê Long và Nguyễn Thị Lan Hương vay với số tiền trên 28 tỷ đồng (đều có giấy viết tay vay nợ). Trong đó, vợ chồng Long Hương vay trên 12 tỷ đồng, Hồng Ân vay trên 15 tỷ đồng; chị Nguyễn Thị Bích Trâm, ở phường 1, thành phố Đông Hà cho 3 người này vay số tiền hơn 21 tỷ đồng.

Chị Trâm cho biết: “Do quen biết với vợ chồng Hương- Long từ lâu nên rất tin tưởng. Trong khi Long-Hương cần một khoản tiền lớn để đáo hạn ngân hàng nên tôi đã vay mượn, cắm sổ đỏ nhà đất và huy động mọi người trong gia đình hùn lại cho vợ chồng Hương-Long và Ân vay với số tiền hơn 21 tỷ đồng”. Ngoài ra còn nhiều người cũng cho vợ chồng HươngLong và Ân vay số tiền từ vài trăm triệu đến hàng chục tỷ đồng. Tất cả các “phi vụ” cho vay và lãi suất được thực hiện theo thỏa thuận giữa các cá nhân. Ngày 19/10/2016, cả hai vợ chồng HươngLong và Ân tuyên bố vỡ nợ. Những người cho vay tiền đã làm đơn gửi đến các cơ quan chức năng tố cáo hành vi lừa đảo của Hương, Long, Ân và đề nghị làm rõ, thu hồi tài sản, trả tiền cho những người đã cho vay.

Tiếp cận hồ sơ tài liệu tại cơ quan điều tra chúng tôi được biết, trong thời gian từ 20/1/2013 đến đầu năm 2014 vì nhu cầu kinh doanh, Nguyễn Thị Lan Hương đã tiến hành vay từ 10 triệu đến 100 triệu đồng theo hình thức vay trả góp hàng ngày với lãi suất thỏa thuận 6%/tháng nhằm mục đích bổ sung vốn kinh doanh shop quần áo. Trong thời gian này Hương đã trả đúng, đủ lãi suất theo thỏa thuận. Từ tháng 5/2014 Hương có thai nên nghỉ kinh doanh áo quần ở nhà. Lúc này Hương còn nợ 320 triệu tiền gốc và 64 triệu tiền lãi từ việc vay trả góp trước đó. Từ thời điểm tháng 5/2014 Hương không có việc làm nên chỉ dựa vào khoản lương 4 triệu đồng/tháng của chồng, điều này đồng nghĩa là Hương không có thêm khoản thu nhập chính đáng nào khác. Vậy nhưng do phải tiếp tục trả tiền nợ, tiền lãi trước đó nên Hương buộc phải tiếp tục vay của những người đang nợ và tìm người vay mới với mục đích lấy khoản vay mới trả khoản nợ cũ; lấy tiền của người này trả cho người kia theo hình thức quay vòng.

Đến cuối năm 2014 thì mọi người biết Hương không còn kinh doanh áo quần nữa nên từ chối cho vay. Để viện được lý do chính đáng vay tiền, Hương đưa ra thông tin mình đang làm thủ tục đáo hạn ngân hàng để được vay một khoản tiền lớn nên trước mắt cần tiền đáo hạn và đồng ý với mức lãi suất cao gấp nhiều lần với thời hạn trả chỉ từ 5-7 ngày hay còn gọi là “vay nóng”. Đơn cử như khoản vay giữa Hương với ông Nguyễn Việt Anh có mức lãi suất thỏa thuận là 4 ngàn đồng/1 triệu đồng/ngày. Cao điểm của đợt vay nóng này là trong vòng 3 tháng (tháng 5- 8/2016), Hương đã phải vay, trả lãi ở mức thỏa thuận rất cao, từ 10 ngàn đồng đến 35 ngàn đồng/1 triệu đồng/ngày. Trong đó phải kể đến khoản vay 1,6 tỷ đồng từ ngày 1/7/2016 đến 29/7/2016 với mức lãi 10 ngàn đồng/triệu đồng/ngày (29 ngày x16 triệu đồng =464 triệu đồng).

Hiện nay số tiền mà những người cho vay tố cáo lên đến gần 100 tỷ đồng. Tuy nhiên, trong quá trình điều tra từ nhiều nguồn và qua ngân hàng, bước đầu cơ quan điều tra xác định tổng số tiền của vụ án này là trên 46 tỷ đồng, có liên quan đến 16 người cho vay và 3 người vay là: Lê Thị Hồng Ân, Võ Lê Long và Nguyễn Thị Lan Hương. Tại sao có sự chênh lệch lớn về số tiền mà các bị hại và đối tượng liên quan tố cáo so với số tiền mà cơ quan điều tra thu thập được?. Trước hết là do hình thức vay trả theo thỏa thuận chứ không tuân thủ các quy định của pháp luật nên không có sự thống nhất về mức lãi suất. Một khi không có được mức lãi suất cố định và có rất nhiều khoản vay cam kết bằng miệng chứ không lưu lại giấy tờ nên cơ quan điều tra không thể liệt kê những khoản vay này vào hồ sơ vụ án. Mặt khác, số tiền mà các bị hại kê khai là bao gồm cả tiền gốc lẫn lãi được “gối đầu” theo từng tháng. Ví dụ khoản vay 1,6 tỷ đồng từ tháng 7/2016 nhưng đến đầu tháng 8/2016 thì được cộng thêm khoản tiền lãi vào tiền gốc (1,6 tỷ đồng+464 triệu= 2,064 tỷ đồng) theo hình thức “lãi mẹ đẻ lãi con” nên số tiền mà các bị hại kê khai cũng từ đó mà tăng cao so với thực tế.

Sở dĩ khởi tố đối tượng Nguyễn Thị Lan Hương là căn cứ vào hành vi của Hương do biết mình vỡ nợ, không có khả năng chi trả nhưng Hương vẫn tiếp tục huy động tiền từ người dân để tiếp tục quay vòng tiền vay (vay của đối tượng A trả lãi cho đối tượng B, vay của đối tượng C trả tiền gốc cho đối tượng A). Với thủ đoạn quay vòng đồng tiền nên Hương đã đảm bảo được giao dịch vay-trả, cơ bản đáp ứng được yêu cầu của bên vay trong việc trả lãi hàng ngày. Theo lập luận của cơ quan điều tra, thủ đoạn này của Hương đủ cơ sở để xác định đây là hành vi lừa đảo nên đã khởi tố bị can Hương, còn Võ Lê Long và Lê Thị Hồng Ân đang trong quá trình điều tra làm rõ.

Đây là vụ án lớn, phức tạp do bản chất và diễn biến mới so với các vụ án lừa đảo, chiếm đoạt tài sản thông thường nên cơ quan điều tra đã hết sức thận trọng trong việc thu thập tài liệu, chứng cứ làm cơ sở để buộc tội Nguyễn Thị Lan Hương. Vụ án đã quá thời hạn điều tra buộc phải gia hạn thêm bởi tính phức tạp của nó. Trước hết là liên quan đến nhiều đối tượng trong một vụ án, trong đó cần làm rõ sự liên quan giữa những người vay và cho vay. Các chứng cứ thu thập được thiếu sự đồng nhất trong các lời khai của các đối tượng có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Số tiền mà các chủ vay tố cáo chênh lệch nhiều so với số tiền mà cơ quan điều tra thu thập được nên trách nhiệm của cơ quan điều tra là phải minh bạch hóa số tiền này. Tiếp đó là các xác định vế tiếp theo của vụ án là “chiếm đoạt tài sản”. Rõ ràng thủ đoạn vay tiền của Hương là hành vi lừa đảo, bởi có chủ ý, chủ đích. Tuy nhiên khoản tiền “lừa đảo” đó Hương sử dụng vào mục đích gì hay tẩu tán đi đâu chính là bài toán hóc búa đặt ra đối với cơ quan điều tra.

Chứng cứ thu thập được từ cơ quan điều tra cho thấy Hương đã dùng số tiền huy động được để trả lãi và gốc cho các đối tượng vay như dẫn chứng đã nêu ở trên. Sau khi khai thác, thu thập hết các khoản thu, chi của gia đình Hương, ngoài khoản thu hợp pháp từ lương của chồng đã cho ra con số chi phí không lớn so với số tiền hàng tỷ đồng mà Hương đang nợ của nhiều người. Điều này càng khẳng định thêm khoản tiền vay chủ yếu là để trả nợ lãi quay vòng, chứ không hình thành nên tài sản cá nhân. Do đó liệu có đủ chứng cứ để buộc tội Hương có “chiếm đoạt tài sản” hay không? Đây chính là mấu chốt cuối cùng của vụ án cần phải được làm sáng tỏ. Nếu có dấu hiệu “chiếm đoạt tài sản” thì phải xử lý nghiêm theo đúng quy định của pháp luật nhằm bảo đảm quyền lợi chính đáng cho người bị hại, tránh thiệt hại về tài chính.

Để xảy ra vụ vỡ nợ lớn nguyên nhân chính là do người dân chưa tuân thủ quy định của pháp luật về cam kết vay, cho vay. Khi người vay “đánh trúng” vào lòng tham của người cho vay vì lãi suất cao và trả đúng kỳ hạn. Nếu người dân tuân thủ quy định của pháp luật, có sự chứng thực của cơ quan chức năng sẽ khó dẫn đến vụ vỡ nợ này. Do vậy, để tránh oan sai hoặc bỏ lọt tội phạm thì các cơ quan điều tra và tố tụng cần làm việc thận trọng và hết sức công tâm. Hiện nay cơ quan điều tra đang tập trung lực lượng kết hợp với Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh tiếp tục điều tra làm rõ để có cơ sở đánh giá, kết luận một cách toàn diện vụ án. Qua đó xác định trường hợp vay-trả nào là quan hệ dân sự, trường hợp nào là quan hệ hình sự.

Tân Nguyên