Tạp bút: Nhớ tết xưa
(QT) - Khi con người ta càng có tuổi, ngày càng già đi, nỗi nhớ ngày cũ càng ùa về. Chất ngất. Trong từng giấc mơ. Trong từng nét suy tư. Cái gì cũng khiến chúng ta nhớ. Là sao nhỉ? Khi nghe tôi than phiền, bạn tôi bảo, thế là đã mon men đến cửa người già rồi đó. Tôi không thích già nhưng nỗi nhớ thì tôi không chịu buông... Quê tôi là một ngôi làng nghèo. “Ăn cơm bữa diếp” là cách người ta nói về làng tôi. Nhưng cái phong tục quen thuộc mà người làng tôi đeo bám, mang vác từ buổi khai sơn phá thạch là “ Dù đói dù no sáng ngày mồng một/ Quần áo tinh tươm sáng rực nụ cười ” - đó là ý mà ngoại tôi nói rồi tôi chuyển lại thành thơ cho dễ nhớ.
 |
Gói bánh chưng ngày tết -Ảnh: TL |
Ngày 23 tháng Chạp, tiễn ông Táo chầu trời bằng đĩa xôi, chén chè rồi cả làng ùa ra đồng cho xong giống má cây trồng, phải đến ngày 30 tết mới tất tưởi bày bàn làm cỗ tất niên. Bắt đầu là những việc làm bình dị mà thật ấm lòng: cắm cây nêu ở ngõ, chặt cây mía từ vườn vào dựng hai phía bàn thờ tổ tiên; làm vệ sinh khắp đường làng ngõ xóm vào đến tận nhà, bày biện lại những đồ dùng cho dù cũ kỹ với tấm lòng thành kính...Những khoảnh khắc ấy ấm áp làm sao! Cũng giống như mọi nhà, sau đêm giao thừa với nồi bánh chưng, bánh tét, với mấy mẻ mứt gừng cay nồng mà củ của chúng mới được đào từ vườn nhà, cha tôi tặng cho mấy đứa nhỏ những chiếc bánh bé tương ứng với vóc dáng của mình để chúng ôm lấy món quà tết yêu dấu ấy mà ngủ một giấc no nê để sáng mùng một phải dậy sớm cho cả năm không dậy muộn; dung nhan tươi tỉnh để cả năm vui vẻ; tránh bị ăn đòn vì bất cứ lỗi gì để cả năm được thương yêu... Vậy rồi, nhà tôi sáng mồng một mới rộn ràng làm sao! Tất cả đều đưa bộ quần áo đẹp nhất, mới nhất ra mặc. Trẻ con thì chạy tung tăng, mấy đứa lớn hơn thì giúp mẹ nấu nướng, bà ngoại tôi vừa vuốt lại bộ quần áo với nhiều nếp gấp cất kỹ trong chiếc rương gỗ, ngồi ngay ngắn ở gian giữa nhìn bọn cháu vây quanh, cười móm mém ra chiều mãn nguyện...Mới đó mà đã gần ba chục năm. Ngoại đã về với ông bà tiên tổ khi chưa kịp thấy đời sống thay đổi, chúng tôi đã trưởng thành và đang già đi với đủ thứ chức phận làm người. Một năm chỉ chờ dịp gần tết lại đem mớ hồi ức rút gan, rút ruột. Tục xông đất của quê tôi không nặng nề như bây giờ ở chốn thị thành. Xông đất là dịp để người thân thiết, yêu quí nhau trao tiếng lòng vào giờ khắc thiêng liêng chứ không phải kiểu xem vía, cầu may như bây giờ. Ngày thường, mọi người có thể đến nhà nhau bất cứ lúc nào nhưng giao thừa thì chỉ dành cho người thân. Ba tôi bảo, cúng giao thừa xong rồi, ba phải đi một vòng đến nhà các cậu, các dì thì cũng là lúc ngoài cửa có tiếng người bạn chí cốt của ba: “Tôi phải đến với ông vào giờ khắc này, vì ông là người bạn thân duy nhất của tôi”. Mọi người nói với nhau những lời quí trọng, thương yêu ở những giây phút đầu tiên của năm mới. Làng tôi, cứ tết đến là mở hội. Dù đói nghèo, lam lũ nhưng cứ sáng mồng một là nam thanh nữ tú đều ra sân làng, người già, trẻ con đều ra sân làng chơi đủ thứ trò. Bài chòi, đánh đu, cờ người và vô số những trò chơi dân gian khác mà tôi không bao giờ quên. Tôi đi theo ngoại để leo lên mấy cái chòi cao ngất ngưỡng ngồi hát, tưởng chỉ chơi nhưng khi ra về ôm một bọc kẹo đầy. Tôi theo mạ đến hội đánh đu. Ngửa cổ nhìn mấy anh chị đánh đu tôi thèm được...lớn. Ôi chao! cái ước mơ lạ kỳ của trẻ con! Tôi theo ba đi đánh cờ người vì ba nói đánh cờ người giỏi sẽ giúp đánh giặc giỏi. Tôi khi ấy còn quá nhỏ, không quan tâm nhiều về lý do, tôi chỉ mê say không khí hội hè. Chơi hai ngày, cho đến mồng ba, để lại những trò vui rộn ràng cho con trẻ, những người đàn ông trụ cột của các gia đình trong làng vác cuốc xẻng đi ra ngoài trảng cát. Không phải đi làm mà đi xủi mả cho những “linh hồn phiêu dạt”. Đó là những ngôi mộ vô chủ không người hương khói, thờ tự. Người làng tôi gọi là “mả âm hồn”. Hồi đó, những ngôi mộ ấy nằm rải rác khắp các trảng đất hoang, cứ đến tết lại được người làng quan tâm chăm sóc cho bớt phần cô quạnh. Phụ nữ nấu mâm cỗ tươm tất một chút gánh ra ngoài trảng cho mấy người đàn ông sau khi xủi cỏ, đắp thêm đất lên nấm mồ hoang hoải gió mưa thì thắp hương cúng vái cầu cho vong linh họ được bình an. Thật là một tục lệ đáng quí! Mà cũng bởi vậy nên mấy năm lại đây làng tôi đã qui tập toàn bộ những ngôi mộ vô chủ ấy về trong một nghĩa địa âm hồn để tiện hương khói và cũng hợp lòng tiền nhân. Có vẻ ngôi làng nghèo mấy đời “ăn cơm bữa diếp” xưa của tôi không bao giờ có tết dài như bây giờ, không dự tính sẽ đi chơi đâu xa, không sắp đặt sẽ đi thăm nhà ai sau, nhà ai trước, không phong bao lì xì, không quà cáp này nọ...nhưng 3 ngày tết đủ làm cho người ta luôn háo hức chờ đợi và thèm thuồng khi tết không ở lại. KHÁNH HÀ