Quảng Trị, mảnh đất của những bước ngoặt lớn
(QT) - Nếu trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Quảng Trị được lựa chọn là địa bàn chiến lược để tổ chức những chiến dịch lớn nhằm tạo những bước ngoặt hết sức quan trọng đem lại thế và lực cho ta trên chiến trường, thì trong công cuộc xây dựng quê hương, Quảng Trị đã chọn những lợi thế so sánh riêng có của mình để tập trung chỉ đạo, đầu tư, khai thác. Những thành tựu thu được từ những định hướng đúng đắn này đã tạo nên dấu ấn của tỉnh trên từng chặng đường phát triển. Nơi lịch sử chọn ...

Quảng Trị, mảnh đất của những bước ngoặt lớn

(QT) - Nếu trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Quảng Trị được lựa chọn là địa bàn chiến lược để tổ chức những chiến dịch lớn nhằm tạo những bước ngoặt hết sức quan trọng đem lại thế và lực cho ta trên chiến trường, thì trong công cuộc xây dựng quê hương, Quảng Trị đã chọn những lợi thế so sánh riêng có của mình để tập trung chỉ đạo, đầu tư, khai thác. Những thành tựu thu được từ những định hướng đúng đắn này đã tạo nên dấu ấn của tỉnh trên từng chặng đường phát triển. Nơi lịch sử chọn làm điểm tựa Sau chiến thắng Điện Biên Phủ (7/1954), thực dân Pháp buộc phải ký Hiệp định Giơ- ne- vơ, sông Bến Hải, cầu Hiền Lương trở thành giới tuyến quân sự tạm thời chia cắt hai miền Nam- Bắc. Từ đây, lịch sử đã đặt trọng trách lên vai Quảng Trị là tuyến đầu của miền Nam thành đồng, nơi đọ sức quyết liệt của cả dân tộc Việt Nam với đế quốc Mỹ xâm lược. Đảng bộ, quân và dân Quảng Trị gánh vác trách nhiệm to lớn là bảo vệ Vĩnh Linh - tiền đồn của miền Bắc xã hội chủ nghĩa, làm thất bại mọi chiến lược chiến tranh của địch, giữ vững hành lang tiếp viện giữa hậu phương lớn miền Bắc và tiền tuyến lớn miền Nam, hỗ trợ đắc lực cho cuộc kháng chiến chống Mỹ của quân và dân ta đi đến ngày toàn thắng.

“Đô thị vàng” trên miền tây Quảng Trị

Lịch sử của cuộc kháng chiến chống Mỹ hào hùng đã ghi đậm những chiến công có ý nghĩa chiến lược đặc biệt quan trọng lên mảnh đất Quảng Trị. Từ cuối năm 1967, Trung ương Đảng ra Nghị quyết 15, mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt ở các tỉnh, thành miền Nam, tạo bước ngoặt cho cuộc kháng chiến chống Mỹ. Bộ Chính trị quyết định mở Chiến dịch tiến công Đường 9 - Khe Sanh Xuân Hè 1968, nhằm thu hút, kìm chân và tiêu diệt lực lượng chủ lực của địch ở đường 9, tạo thuận lợi cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy của quân và dân ta tại các đô thị lớn, từng bước phá vỡ tuyến phòng ngự của địch nơi địa bàn trọng yếu này. Giữa tháng 1/1968, chiến dịch mở màn và đến ngày 15/7, với khí thế tiến công như vũ bão, ta đã bẻ gãy sự kháng cự và nghiền nát một lực lượng lớn của địch được sự hỗ trợ tối đa của vũ khí, khí tài hiện đại nhất lúc bấy giờ, giải phóng hoàn toàn huyện Hướng Hóa, kết thúc thắng lợi vang dội chiến dịch Đường 9 - Khe Sanh Xuân Hè 1968, tiến tới phá sản chiến lược “chiến tranh cục bộ” của Mỹ, làm nức lòng quân và dân cả nước. Chiến thắng của quân và dân ta trong chiến dịch phản công Đường 9 - Nam Lào 1971 được đánh giá là bước ngoặt chiến lược mới, là thắng lợi của liên minh chiến đấu Việt Nam- Lào anh em trong cuộc kháng chiến chống kẻ thù chung là đế quốc Mỹ, bẻ gãy xương sống chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của Mỹ, tác động trực tiếp và to lớn đến cuộc chiến đấu của quân và dân ta trên chiến trường miền Nam. Tháng 8/1971, Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng quyết định mở cuộc tiến công chiến lược quy mô lớn trên toàn miền Nam vào năm 1972 nhằm tiêu diệt một bộ phận lực lượng quân sự của địch, giải phóng những địa bàn chiến lược, buộc địch phải chấp nhận giải pháp chính trị theo điều kiện của ta. Chiến trường Trị - Thiên được chọn làm hướng tiến công chủ yếu. Bắt đầu từ cuối tháng 3/1972, ta đã chủ động tiến công phá vỡ tuyến phòng ngự của địch, giải phóng 2 huyện Cam Lộ, Gio Linh, tiêu diệt tập đoàn phòng ngự của chúng ở Đông Hà, Ái Tử, thị xã Quảng Trị, La Vang, giải phóng hoàn toàn tỉnh Quảng Trị. Lịch sử không thể nào quên những ngày hè của năm 1972, hàng vạn chiến sĩ ta đã bất chấp mưa bom bão đạn, bí mật bất ngờ vượt sông Thạch Hãn vào Thành Cổ Quảng Trị để bám trụ và lập nên những chiến công hiển hách. Cuộc chiến đấu anh dũng 81 ngày đêm bảo vệ Thành Cổ là đòn chiến lược bẻ gãy ý đồ cuồng vọng tái chiếm Quảng Trị của Mỹ- ngụy, đem lại thế mạnh cho ta trên bàn đàm phán Paris, tạo bước ngoặt quan trọng để cả dân tộc xốc tới trong trận đánh cuối cùng, ca khúc khải hoàn vào mùa xuân lịch sử năm 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Mở đường đi tới bằng những đột phá mới Có thể nói, thoát ra từ cuộc chiến tranh tàn khốc hơn 20 năm đằng đẳng, chỉ đến thời điểm sau ngày lập lại tỉnh (tháng 7/1989), Quảng Trị mới có cơ hội để tạo dựng và mở đường đi tới bằng những đột phá mới, phù hợp với tiến trình phát triển của đất nước. Bước đột phá đem lại hiệu quả to lớn và tạo dấu ấn đậm nét trong quá trình phát triển của tỉnh Quảng Trị đó là chọn hướng đầu tư vào những lĩnh vực, địa bàn có lợi thế để xốc dậy cả một nền kinh tế đang ở điểm xuất phát rất thấp. Trong các cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm, miền tây Quảng Trị (bao gồm 2 tiểu vùng là vùng gò đồi và vùng miền núi thuộc phạm vi ranh giới hành chính 72 xã, thị trấn của 7 huyện: Vĩnh Linh, Gio Linh, Triệu Phong, Hải Lăng, Cam Lộ, Đakrông và Hướng Hoá) là địa bàn chiến lược trọng yếu. Ngày nay, địa bàn này là nơi tập trung sự chỉ đạo, lãnh đạo của tỉnh, ưu tiên phát triển các lĩnh vực kinh tế giàu tiềm năng và có lợi thế so sánh như sản xuất cây công nghiệp dài ngày, trồng rừng, các mô hình kinh tế trang trại nông, lâm kết hợp và công nghiệp chế biến, sản xuất hàng xuất khẩu gắn với việc phát triển và hình thành Khu Kinh tế-Thương mại đặc biệt Lao Bảo và các đô thị trên tuyến Hành lang kinh tế Đông -Tây để tạo động lực cho nền kinh tế toàn tỉnh.

Mây trắng trên cầu Cửa Việt

Nhờ vậy đến nay nền kinh tế- xã hội miền tây đã có bước phát triển. Sản lượng lương thực của toàn vùng ước đạt 75 - 80 ngàn tấn, cơ bản đảm bảo được an ninh lương thực, đưa lương thực bình quân đầu người đạt khoảng 288 kg/người/năm. Cây chất bột có củ, cây công nghiệp, cây thực phẩm, cây ăn quả như sắn, lạc, cao su, hồ tiêu, cà phê, chuối…đã hình thành các vùng sản xuất tập trung, tạo nguyên liệu cho công nghiệp chế biến và tăng quy mô hàng xuất khẩu. Chăn nuôi hàng hóa đang được đẩy mạnh. Bảo vệ tốt vốn rừng tự nhiên hiện có, phát triển mạnh trồng rừng, chú trọng rừng kinh tế. Từng bước đưa ngành thương mại-dịch vụ, du lịch phù hợp với xu thế hội nhập kinh tế-văn hoá trong nước và quốc tế trên tuyến hành lang Đông-Tây. Đến nay, hệ thống giao thông đã cơ bản đảm bảo nhu cầu đi lại, lưu thông hàng hoá giữa các địa bàn trong vùng, giữa vùng với các trung tâm lớn của tỉnh, có 100% số xã có đường giao thông về trung tâm. Đặc biệt, việc thực hiện lồng ghép có hiệu quả các chương trình mục tiêu quốc gia về xoá đói giảm nghèo, chương trình 134, 135, định canh định cư; chính sách hỗ trợ miền núi, hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số, kết hợp thực hiện đồng bộ các chương trình phát triển kinh tế-xã hội trên địa bàn nhằm đẩy mạnh phát triển kinh tế, tạo việc làm và tăng thu nhập cho người lao động đã được quan tâm, góp phần đưa tỷ lệ hộ nghèo hàng năm giảm xuống đáng kể. Song song với việc chú trọng phát triển kinh tế- xã hội miền tây, gần 11 năm qua, các cấp, các ngành, các địa phương ở tỉnh Quảng Trị phối hợp tổ chức thực hiện có hiệu quả Nghị quyết số 04 NQ/TU, ngày 1/7/2002, của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Trị, khóa XIII, về phát triển kinh tế - xã hội miền biển, vùng cát, đã tạo nên những chuyển biến tích cực trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, dần đưa nông nghiệp miền biển và vùng cát phát triển theo hướng bền vững. Miền biển và vùng cát của tỉnh có 29 xã, một thị trấn thuộc các huyện Vĩnh Linh, Gio Linh, Triệu Phong, Hải Lăng và huyện đảo Cồn Cỏ; có diện tích trên 48.686 ha, chiếm hơn 10% diện tích toàn tỉnh. Dân số trong vùng khá đông, gấp 2,2 lần mật độ dân số bình quân của tỉnh. Nghề nghiệp của nhân dân trong vùng chủ yếu là khai thác, nuôi trồng thủy sản và sản xuất nông nghiệp. Tại vùng đất giàu tiềm năng này, người dân đã thực hiện tốt chương trình chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo hướng ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật, tăng hiệu quả sử dụng đất, tăng giá trị trên đơn vị diện tích, từng bước phủ xanh vùng cát bạc màu, hoang hóa, thiết lập vành đai rừng phòng hộ; cải tạo gần 600 ha đất cát để trồng ngô nếp, lạc, dưa hấu, hành, ớt… đào kênh tiêu úng, đào ao nuôi cá; phát triển chăn nuôi gia súc, gia cầm. Bình quân thu nhập của các hộ trong những làng sinh thái ven biển đạt từ 20 - 30 triệu đồng/năm. Việc nuôi trồng thủy sản đang được tạo điều kiện phát triển mạnh cả về diện tích, năng suất, sản lượng, trở thành nghề sản xuất hàng hóa có giá trị kinh tế cao. Tổng diện tích nuôi trồng thủy sản trong vùng đạt trên 3.000 ha, trong đó diện tích nuôi tôm chiếm trên 1.000 ha; sản lượng nuôi trồng thủy sản trung bình hàng năm xấp xỉ 9.000 tấn. Về đánh bắt hải sản, tính từ năm 2008 đến nay, tỉnh đã hỗ trợ hàng chục tỉ đồng giúp ngư dân sửa chữa tàu thuyền, sắm thêm ngư lưới cụ, mua nhiên liệu duy trì và mở rộng việc đánh bắt hải sản. Ngư dân khai thác và dịch vụ trên các vùng biển xa còn được hỗ trợ về thông tin liên lạc ở bờ và trang bị máy ICOM trên các tàu có tích hợp định vị vệ tinh (GPS). Tính trung bình trong một năm, ngư dân toàn vùng đánh bắt được trên 15.000 tấn hải sản các loại. Các công trình kết cấu hạ tầng hỗ trợ cho nghề khai thác hải sản như Khu neo đậu trú bão và hậu cần nghề cá Cửa Tùng; Cảng cá và Khu dịch vụ hậu cần nghề cá Cồn Cỏ (giai đoạn 2); Khu neo đậu trú bão tàu thuyền nghề cá Cửa Việt…đang được xây dựng, hoàn thiện. Từ một địa bàn hoang hóa, vùng cát ven biển Quảng Trị hiện đã và đang hình thành các cụm kinh tế- thương mại- dịch vụ tập trung như thị trấn Cửa Tùng, Mỹ Thủy, Bồ Bản; cụm công nghiệp Quán Ngang; các cụm tuyến dọc đường Cửa Việt - Cửa Tùng, đường Cửa Tùng - địa đạo Vịnh Mốc, khu du lịch sinh thái biển Cửa Tùng - Cửa Việt - đảo Cồn Cỏ… tạo động lực cho sự phát triển của vùng. Bây giờ, từ Khe Sanh về Cửa Việt, một vùng đất trắng nơi chiến trường xưa đã được phủ một màu xanh no ấm. Cuộc sống đang hối hả trong từng chuyển đổi để hội nhập và phát triển không ngừng. “Đô thị vàng” Lao Bảo, cánh cửa để Quảng Trị liên kết, hợp tác với các nước trên Hành lang kinh tế Đông- Tây đã nối nhịp thông thương với trục động lực Cửa Việt- Cửa Tùng- đảo Cồn Cỏ và trong tương lai là Khu kinh tế Đông Nam, cảng nước sâu Mỹ Thủy...nơi Quảng Trị chọn hướng vươn ra khai thác tiềm năng kinh tế biển để phát triển bền vững và bảo vệ chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc. Tập trung khai thác tiềm năng của miền tây, miền biển và vùng cát đã tạo nên những bước ngoặt mới, đánh thức những lợi thế so sánh ở những địa bàn trọng yếu, đóng góp quan trọng vào sự phát triển kinh tế- xã hội chung của tỉnh. Đây có thể xem là những “chiến dịch” lớn với những “binh chủng hợp thành” tấn công mạnh mẽ vào tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, mở hướng đi lên ấm no, hạnh phúc, giàu mạnh. Trong cuộc chiến đấu trên mặt trận đầy mới mẻ và không kém phần cam go này, khí thế tiến công năm xưa vẫn đang được phát huy mạnh mẽ nhằm tạo nên những bước ngoặt mới, đem lại lợi thế và tính chủ động, để Quảng Trị từ khó nghèo vươn đến thịnh vượng, hội nhập, phát triển. Bài, ảnh: ĐÀO TÂM THANH