Larasati nâng giá tranh các họa sĩ trẻ châu Á
(DNSGCT) - Daniel Komala - Giám đốc điều hành Larasati (một công ty chuyên đấu giá tranh ở Indonesia) cho biết ông có những thủ thuật để lăng-xê các họa sĩ trẻ châu Á, tiêu biểu là I Nyoman Masriadi - từ một kẻ vô danh trở thành một ngôi sao trên các sàn đấu giá quốc tế.

Larasati nâng giá tranh các họa sĩ trẻ châu Á

(DNSGCT) - Daniel Komala - Giám đốc điều hành Larasati (một công ty chuyên đấu giá tranh ở Indonesia) cho biết ông có những thủ thuật để lăng-xê các họa sĩ trẻ châu Á, tiêu biểu là I Nyoman Masriadi - từ một kẻ vô danh trở thành một ngôi sao trên các sàn đấu giá quốc tế.

Theo nhà kinh doanh 47 tuổi này, khá nhiều tên tuổi hàng đầu của nghệ thuật tạo hình châu Á đương đại là chủ nhân các tác phẩm hiện đang có giá hàng triệu USD trên thị trường New York và Hong Kong đã khởi đầu sự nghiệp tại Công ty Larasati do ông thành lập vào năm 2000.

Một phiên đấu giá tại nhà Larasati
Vài năm trước, lúc các tác phẩm của hai họa sĩ Indonesia I Nyoman Masriadi và Agus Suwage chỉ được mua với giá rẻ mạt thì Larasati đã táo bạo tổ chức đấu giá tranh của họ trước khi những “ông lớn” như Sotheby’s và Christie’s nhảy vào cạnh tranh. Nay cả hai họa sĩ trên đều rất nổi tiếng.

I Nyoman Masriadi, sinh năm 1973, họa sĩ đương đại Đông Nam Á có tranh cao giá nhất hiện nay
Komala - một người gốc Hoa thế hệ thứ tư tại Indonesia cũng đã tự hào tuyên bố trong một cuộc phỏng vấn mới đây tại Hong Kong: “Hãy nhìn vào các biểu tượng trên thị trường nghệ thuật châu Á đương đại! Tất cả đều bắt đầu tại địa điểm của tôi. Tôi muốn trở thành Citigroup của thế giới nghệ thuật và những người khởi đầu từ đây sẽ đi rất xa”.

Các nhà sưu tập đang muốn lao vào “vụ mùa” tới của các nghệ sĩ hàng đầu châu Á nên họ “cần đi xem danh mục tác phẩm đấu giá của Larasati và mua tranh của họ khi giá cả vẫn còn phải chăng”, theo lời Komala.

Giá tranh tăng vọt

Tranh của Agus Suwage
Minh chứng cho lời Komala là tập danh mục tác phẩm của Sotheby’s về nghệ thuật Đông Nam Á được đấu giá ở Hong Kong đầu tháng 4-2009. Trong số đó, một tranh sơn dầu có tên Charity (Từ thiện) của Suwage có giá khởi điểm lên đến 32.200 USD. Chính họa sĩ này còn nhớ một bức tranh tương tự của anh khi được bán ở nhà đấu giá Larasati năm 1999 chỉ được 9.000.000 rupiah (khoảng 980 USD theo thời giá lúc ấy).

Komala cho biết hiện nay đang là thời điểm tốt để mua tác phẩm của các nghệ sĩ đang lên như Hadi Masoed và Ristyo Eeko Hartanto vì giá tranh của họ vẫn còn rẻ. Giống như tranh của Masriadi và Nhạc Mẫn Quân (Trung Quốc), hai họa sĩ trẻ Indonesia đã diễn đạt các chủ đề phổ quát của thời đại chúng ta đang sống bằng sức mạnh nội tại có thể vươn tới các nền văn hóa khác.

“Với những phẩm chất ấy, tranh của họ hiện nay có giá tương đối rẻ” - Komala đánh giá. Một tác phẩm của Hartanto trong danh mục của Sotheby’s được trả giá cuối cùng tương đương 30.000 USD trong kỳ đấu giá tháng 4/2010 tại nhà Sotheby’s Hong Kong. Vậy mà chính bức tranh này được Larasati bán tại Singapore một năm rưỡi về trước chỉ với giá 17.000 USD.

Những kỷ lục Đông Nam Á

Vũ công ballet - tranh của Nguyễn Thanh Bình trong bộ sưu tập của nhà Larasati
Tuy nhiên, theo ông Mok Kim Chuan - người phụ trách mảng tác phẩm mỹ thuật Đông Nam Á tại nhà Sotheby’s ở Singapore, đối thủ trực tiếp của Larasati - những so sánh kiểu trên là vô nghĩa. Các nhà đấu giá sẽ quyết định đâu là những bức tranh sẽ bán để đáp ứng nhu cầu thị trường và đâu là những tác phẩm có giá trị thực sự, chứ không phải là những gì mà đối thủ của họ đang tính toán làm giá.

Chính Sotheby’s đã tổ chức buổi đấu giá vào tháng 10-2008 và đã thiết lập kỷ lục cho một tác phẩm hội họa Đông Nam Á. Đó là bức Gã đàn ông Bantul của Masriadi, được bán với giá khoảng một triệu USD. Ông Mok nói: “Người đầu tiên bán đấu giá những bức tranh (ám chỉ Larasati) không có nghĩa là người mở đầu một xu hướng mới trong nghệ thuật”.

Ông Mok cho biết Sotheby’s đã đi tiên phong trong việc đưa những tác phẩm đương đại Đông Nam Á ra công chúng và những nhà sưu tập trong một phiên đấu giá tại Singapore năm 1996. Trong khi đó, bà Ruoh-Ling Keong - người phụ trách bộ phận nghệ thuật hiện đại và đương đại của nhà Christie’s ở Đông Nam Á thì cho rằng Christie’s đã đưa những tác phẩm nghệ thuật Đông Nam Á ra thế giới lần đầu tiên vào năm 2005 cùng lúc với những bức tranh giá hàng triệu USD của Trung Quốc và Ấn Độ.

Tại nhà Christie’s, các tác phẩm nghệ thuật Đông Nam Á tính ra đã thu được khoảng bảy triệu USD trong năm 2009 - một con số đáng kể trong tình hình tài chính thế giới vẫn còn nhiều bất ổn hiện nay.

Dịch vụ quảng cáo cho các buổi đấu giá là một yếu tố luôn mang lại thành công cho các họa sĩ như Masriadi. Ông Jasdeep Sandhu - Giám đốc gallery Gajah ở Singapore cũng là đại diện của nhà đấu giá Masriadi từ cuối năm 2007còn khẳng định: “Đơn vị nào lần đầu tiên đưa ra đấu giá tác phẩm của một họa sĩ không phải là điều quan trọng, mà giá trị được hình thành vẫn từ chất lượng tác phẩm của họa sĩ ấy”.

Theo bà Sandra Walters, một nhà sưu tập đang điều hành một công ty tư vấn nghệ thuật cùng tên tại Hong Kong, vài năm trở gần đây, người châu Âu và người Mỹ chỉ mua các tác phẩm nghệ thuật đương đại Trung Quốc nên nay mới “mở mắt ra trước văn hóa Đông Nam Á”. Cũng theo bà, tranh của Masriadi không được giới thiệu nhiều như những tác phẩm của Damien Hirst, do đó họ phải chấp nhận giá bán thấp hơn, cho dù chất lượng tương đương nhau.

Cơ hội của Komala

Daniel Komala - ông chủ của Larasati
Daniel Komala bắt đầu sưu tập tranh 16 năm trước, hiện sở hữu khoảng 40 bức tranh có giá trị. Cơ hội kinh doanh tác phẩm nghệ thuật của ông đến trong thời kỳ khủng hoảng tài chính châu Á (1997- 1998), đánh dấu bởi sự sụt giảm giá trị đồng tiền các nước trong khu vực. Những biến động tài chính tàn phá các công ty bởi các khoản nợ được tính bằng USD, trong khi họ chỉ thu được đồng tiền bản địa.

Giữa năm 1998, ở cao trào của cuộc khủng hoảng, đồng rupiah của Indonesia được giao dịch ở mức 17.000 rupiah/1 USD, trong khi một năm trước khủng hoảng chỉ cần 2.500 rupiah là đổi được 1 USD. Lúc đó, với một nhóm nhỏ chuyên gia thuộc tầng lớp trung lưu ở Indonesia thì những tài sản trị giá bằng rupiah, bao gồm cả những tác phẩm nghệ thuật, trở nên rẻ đến bất ngờ.

Thế là nhà thống kê Komala từng được đào tạo tại London bỏ việc, thành lập Larasati và năm 2000 tổ chức phiên đấu giá đầu tiên của mình tại Khách sạn Aryaduta ở Jakarta, cung cấp 140 lô tác phẩm với trị giá ước tính khi đó là 250.000 USD. Nào ngờ doanh số thu được lên đến 400.000 USD, cứ bốn tác phẩm đưa ra đấu giá thì bán được ba. Một thắng lợi ngoạn mục, khởi đầu cho quá trình kinh doanh thành công liên tiếp của Larasati.

Larasati hiện nay tổ chức đấu giá định kỳ sáu tháng một lần tại Hong Kong và Singapore. Từ doanh thu một triệu USD trong năm 2000, năm ngoái công ty có tổ chức chặt chẽ này đã đạt doanh thu 10 triệu USD.

Komala dự định năm nay sẽ thành lập một công ty khác có trụ sở tại Singapore để cung cấp những dịch vụ phi thương mại như giáo dục nghệ thuật và tổ chức triển lãm bởi vì theo ông, điều đó sẽ giúp phổ biến các tác phẩm nghệ thuật châu Á nhiều hơn.

Từ khi Larasati tổ chức cuộc đấu giá đầu tiên vào ngày 30-4-2000, qua sàn đấu giá này, giá tranh của các họa sĩ trẻ Indonesia cũng như của các nghệ sĩ châu Á khác tăng vọt, lập được nhiều kỷ lục. Năm 2003, với việc mở chi nhánh tại Singapore, Larasati đã trở thành một gương mặt quan trọng trên thị trường tác phẩm nghệ thuật châu Á và trở thành nhà đấu giá đầu tiên ở châu Á đã vượt qua ranh giới quốc gia để khẳng định vị trí quốc tế của mình.

Larasati tập trung giới thiệu các tác phẩm độc đáo của các nước châu Á và chăm sóc tác phẩm như cách làm của một bảo tàng mỹ thuật. Trong bộ sưu tập của Larasati hiện nay có tác phẩm của nghệ sĩ các nước Indonesia, Trung Quốc, Ấn Độ, Hàn Quốc, Việt Nam, Malaysia, Indonesia và Philippines. Một số họa sĩ Việt Nam như Nguyễn Thanh Bình, Lê Kinh Tài… đã có tranh đấu giá tại Larasati.

DIÊN VỸ