Nâng cao chất lượng lao động ở nông thôn
(QT) - Hiện nay, trên địa bàn tỉnh Quảng Trị xét về cầu lao động ở nông thôn, quy mô việc làm trong lĩnh vực nông nghiệp đang có xu hướng giảm từ 236 nghìn người (năm 2000) giảm xuống 219 nghìn người (năm 2005) và xuống 208 nghìn người (năm 2008). Trung bình mỗi năm giảm khoảng 15 ngàn lao động và dự báo sẽ tiếp tục thay đổi đúng hướng trong tiến trình CNH, HĐH sản xuất nông nghiệp, nông thôn. Tuy nhiên, trong bối cảnh các hoạt động phi nông nghiệp nhất là công nghiệp ở nông thôn chưa thực sự phát triển, kết quả chuyển dịch cơ cấu lao động từ nông nghiệp sang phi nông nghiệp thấp và chậm, chỉ đạt hơn 8% trong 5 năm qua là một dấu hiệu khó khăn về cơ hội việc làm tại chỗ đối với lao động ở nông thôn có trình độ thấp.
 |
Chế biến mặt hàng cao su xuất khẩu ở Công ty cao su Quảng Trị. Ảnh: Hồ Cầu |
Cầu lao động nông nghiệp giảm do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân liên quan đến đất sản xuất nông nghiệp. Đất đai vẫn được xem là tư liệu sản xuất chính ở nông thôn. Theo tính toán bình quân 1 ha đất sản xuất nông nghiệp giải quyết việc làm cho 13 - 15 lao động. Tuy nhiên lao động nông thôn đang phải đối mặt với thực tế là diện tích đất sản xuất đã thiếu lại đang có xu hướng bị thu hẹp do phải chuyển đổi mục đích sử dụng, đặc biệt là quá trình đô thị hoá và phát triển các khu, cụm công nghiệp. Đô thị hoá, phát triển khu, cụm công nghiệp là cần thiết, nhưng trong ngắn hạn việc chuyển dịch lao động với quy mô lớn từ sản xuất nông nghiệp sang phi nông nghiệp là rất khó khăn, do công nghiệp địa phương phát triển chậm. Mặt khác, nhu cầu sử dụng lao động làm việc trên một đơn vị diện tích đất sản xuất nông nghiệp cũng có xu hướng giảm do ứng dụng khoa học kỹ thuật, phát triển hệ thống thuỷ lợi, giao thông nông thôn và cơ giới hoá sản xuất nông nghiệp. Đây là nguyên nhân cơ bản làm cho thời gian nhàn rỗi ở nông thôn tiếp tục tăng hay còn gọi thất nghiệp “che giấu”. Xét về cung lao động ở nông thôn cũng cho thấy, nguồn cung lao động tại chỗ tiếp tục tăng, thêm vào đó là luồng di chuyển lao động ngược về nông thôn do thất nghiệp ở thành thị đang gây sức ép lớn về nhu cầu việc làm ở nông thôn. Lực lượng lao động trong tỉnh tập trung chủ yếu ở nông thôn (70% năm 2005 và 65% năm 2008) và cung lao động vẫn tiếp tục tăng do lực lượng dân số đến độ tuổi lao động và tham gia lực lượng lao động hàng năm rất cao. Trong giai đoạn 2000 - 2008, lực lượng lao động nông thôn bình quân tăng thêm khoảng 14 - 15 ngàn lao động/năm. Hiện nay ở nông thôn, vấn đề lao động, việc làm không chỉ chịu sức ép về nhu cầu việc làm của lực lượng lao động mới tăng thêm mà còn phải chịu sức ép của nhóm lao động di chuyển ngược do thất nghiệp hay thiếu việc làm từ khu vực thành thị, khu công nghiệp hay khu chế xuất của các tỉnh phía Nam trở về nông thôn. Khó khăn là vậy, cộng với trình độ học vấn phổ thông và trình độ chuyên môn kỹ thuật của lực lượng lao động nông thôn rất thấp. Tỷ lệ lao động chưa tốt nghiệp tiểu học đã giảm đáng kể từ 21% (năm 2000) xuống 12% (năm 2008), tỷ lệ lao động có trình độ tốt nghiệp trung học phổ thông đã tăng từ 9% (2000) lên 17% (năm 2008). Tỷ lệ lao động qua đào tạo tăng chậm 14% (năm 2000) lên 28,5% (năm 2008). Đây là một trong những hạn chế của nguồn nhân lực trong phát triển, tìm kiếm việc làm, chuyển đổi nghề nghiệp hiện nay hay tham gia các thị trường lao động hiệu quả trên địa bàn tỉnh. Trước thực trạng đó, lực lượng lao động nông nghiệp, nông thôn đang bị ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế thế giới. Chưa có số liệu chính thức, tuy nhiên theo ước tính trong năm qua đã có hàng chục ngàn lao động khác mất việc làm do khủng hoảng kinh tế. Khủng hoảng kinh tế làm nhiều nền kinh tế trên thế giới bị suy thoái, năm 2009 theo khảo sát chưa đầy đủ, toàn thế giới sẽ giảm khoảng 210 triệu chỗ làm việc. Tình hình này chắc chắn sẽ ảnh hưởng xấu đến cơ hội xuất khẩu lao động của nước ta nói chung và tỉnh Quảng Trị nói riêng mà chủ yếu là lao động từ nông thôn. Thất nghiệp thành thị đang gây ra một dòng di chuyển lao động “ngược” về nông thôn Giải quyết việc làm ở nông thôn trong giai đoạn hiện nay đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức. Đó là khó khăn mang tính “cố hữu” của nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu trong quá trình chuyển đổi như phân bố một tỷ lệ lao động quá lớn nhưng không hiệu quả trong lĩnh vực nông nghiệp và khu vực nông thôn; trình độ lao động thấp; cầu lao động sản xuất nông nghiệp có xu hướng thu hẹp trong khi cung lao động nông thôn vẫn tăng cả trong dài hạn (do tăng dân số tự nhiên) và ngắn hạn (do dòng di chuyển lao động ngược); cơ hội di chuyển lao động sang lĩnh vực phi nông nghiệp, di chuyển ra thành thị hay xuất khẩu lao động đang có nguy cơ bị “đóng” do khủng hoảng kinh tế thế giới. Để giải quyết vấn đề việc làm, trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế, bên cạnh những nhóm giải pháp lớn của Chính phủ như: thúc đẩy sản xuất kinh doanh và xuất khẩu; thực hiện các biện pháp kích cầu đầu tư; chính sách tài chính hỗ trợ doanh nghiệp; đảm bảo an sinh xã hội...có thể xem xét thêm một số giải pháp cụ thể hơn đối với vấn đề lao động, việc làm nông thôn và vị thế kinh tế trên địa bàn tỉnh. Phải duy trì sản xuất nông nghiệp, trước hết là sản xuất lúa gạo và các loại nông sản, đảm bảo thực hiện được mục tiêu sản lượng và giải quyết việc làm thông qua nhiều gói hỗ trợ như: gói tín dụng hỗ trợ sản xuất nông nghiệp, ưu tiên các loại sản phẩm chiến lược như cao su, cà phê, trồng rừng, nuôi tôm công nghiệp, đánh bắt thuỷ sản...; gói tín dụng hỗ trợ bao tiêu, chế biến nông sản, thông qua hoạt động của các tổng công ty, gói hỗ trợ lao động sản xuất nông nghiệp (nông dân) về giống, thuỷ lợi, phân bón... Đẩy mạnh hỗ trợ phát triển mô hình kinh tế hộ tự sản xuất, tự tạo việc làm thông qua các gói hỗ trợ tín dụng vi mô, chương trình tín dụng việc làm và các chính sách hỗ trợ khác. Đầu tư phát triển các “công trường lớn” mang tính công ích sử dụng nhiều lao động, phát triển mô hình thanh niên nông thôn đi xây dựng kinh tế mới ở các xã miền núi, thanh niên lập nghiệp. Ưu tiên đầu tư xây dựng các công trình hạ tầng cơ sở ở nông thôn như giao thông nông thôn, thuỷ lợi…với mục tiêu tạo việc làm và thu nhập tại chỗ cho người dân. Phát triển các dự án trồng và chăm sóc rừng quy mô lớn, vừa giải quyết lao động phổ thông ở nông thôn vừa đảm bảo phát triển bền vững. Đặc biệt vấn đề có tính chất tạo việc làm ổn định, lâu dài là hỗ trợ tăng cường các hoạt động đào tạo nâng cao nguồn nhân lực nông thôn “tranh thủ” khoảng thời gian nhàn rỗi. Đặc biệt ưu tiên đào tạo lao động xuất khẩu, chuẩn bị để đáp ứng tốt hơn nhu cầu lao động quốc tế sau khủng hoảng, hỗ trợ dự án đào tạo nghề cho thanh niên nông thôn, nông dân và người nghèo thông qua các gói hỗ trợ dạy nghề và nâng cao chất lượng nguôn nhân lực, kéo dài thời gian đào tạo của học viên, sinh viên thông qua chính sách khuyến khích học viên, sinh viên học bổ sung, mở rộng, nâng cao kiến thức và tham gia bậc học cao hơn sau khi tốt nghiệp. Có như vậy, mới tạo ra nhiều việc làm cho lao động trong nông nghiệp ở địa phương, hạn chế tình trạng “ly nông, ly hương”, con đường cơ bản để xóa đói giảm nghèo, tăng thu nhập cho người nông dân. Nguyễn Quốc Thanh