Cáp Quang Hà và hành trình dang dở của cha
(QT) - Đồi Bướm Bạc nằm cách địa phận xã Hải Chánh (Hải Lăng, Quảng Trị) chừng 7 cây số đường tắt, giờ đã thay hình đổi dạng một cách chóng mặt với mướt mát màu xanh của rừng, so với đồi trọc lau lách cách nay gần chục năm. Tấm áo xanh mới của rừng keo tai tượng, rừng tràm đã gắn tên đồi Bướm Bạc với ông Cáp Xuân Hội - là người khai hoang mảnh đồi này. Nhưng ít ai biết rằng, thầm lặng cùng cha mình, anh Cáp Quang Hà đã bỏ mảnh đất trồng tiêu màu mỡ Phú Quốc trở về quê bươn chải với rừng, đã và ...

Cáp Quang Hà và hành trình dang dở của cha

(QT) - Đồi Bướm Bạc nằm cách địa phận xã Hải Chánh (Hải Lăng, Quảng Trị) chừng 7 cây số đường tắt, giờ đã thay hình đổi dạng một cách chóng mặt với mướt mát màu xanh của rừng, so với đồi trọc lau lách cách nay gần chục năm. Tấm áo xanh mới của rừng keo tai tượng, rừng tràm đã gắn tên đồi Bướm Bạc với ông Cáp Xuân Hội - là người khai hoang mảnh đồi này. Nhưng ít ai biết rằng, thầm lặng cùng cha mình, anh Cáp Quang Hà đã bỏ mảnh đất trồng tiêu màu mỡ Phú Quốc trở về quê bươn chải với rừng, đã và đang tiếp tục tâm nguyện dở dang của cha là tiếp tục trồng rừng và tìm kiếm hài cốt đồng đội của cha còn nằm lại trên đồi Bướm Bạc. Lấy của rừng nuôi người trồng rừng Cáp Quang Hà cùng với người em theo cha về quê nội ở Hải Xuân, Hải Lăng, đã ngót ngét gần hai chục năm. Giọng nói của anh vẫn rặt chất miền Nam nhưng tính cách có lẽ đã nhuốm sự cần cù, chịu thương chịu khó của người miền Trung lam lũ. 22 tuổi theo cha cùng cả gia đình lên đồi Bướm Bạc, vỡ đất, phát cây trồng rừng. Cứ mò mẫm mà làm, giữa bạt ngàn lau lách, me, sim, giữa những quả đồi hoang trơ trọi, không đường sá, không phương tiện đi lại, đặc biệt là những nguy hiểm khó lường với một lượng bom mìn không nhỏ sót lại trong lòng đất, lúc bấy giờ anh vẫn chưa hiểu hết được lý do tại sao cha mình lại chọn chốn heo hút này để sinh sống. Không một bóng người, quanh bốn bề hoang vắng, ông Hội - với tâm nguyện tìm hài cốt đồng đội còn nằm lại trên đồi Bướm Bạc này- đã quyết tâm bám trụ cùng gia đình nơi đây.

Cáp Quang Hà (ngoài cùng, bên trái) cùng lực lượng kiểm lâm kiểm tra bảo vệ rừng.

Đất đồi mênh mông, sức người có hạn, cha con anh thuyết phục thêm mười người họ hàng cùng lên khai khẩn đất trồng rừng. Huyện cấp cho 11 hộ 157 ha, kiểm lâm huyện cấp cho 16 ha rừng PAM, gia đình vay kho bạc 120 triệu đồng làm lưng vốn ban đầu. Chừng đó có lẽ đã đủ nhiều để tiếp thêm niềm tin và ý chí cho những người quyết tâm bám đất trồng rừng. Bắt đầu từ vỡ đất, mua giống cây về ươm, rồi đào hố trồng…, vắt sức người chinh phục đất. Anh Hà còn nhớ, cứu cánh của gia đình và mười mấy con người cùng làm thời bấy giờ là khẩu súng săn. Lo cái ăn hàng ngày ở nơi không đường sá, không chợ búa thật không hề đơn giản. Buổi tối, anh cùng một số anh em lên rừng săn thú rừng, số thực phẩm quý báu này không chỉ đủ cải thiện bữa ăn hàng ngày mà còn dành ra để bán lấy tiền trang trải cuộc sống. Nhưng cho dù đã cố gắng xoay xở đủ bề, sống giữa bốn bề hoang vu, cằn cỗi, khí trời khắc nghiệt, điều kiện sống kham khổ, lòng người khó bề không chùng. Được hơn 1 năm, không đủ kiên nhẫn chờ cây lớn, lần lượt 10 người họ hàng bỏ đất về quê. Chỉ còn lại ba cha con ở lại mà lòng không ít hoang mang. Vừa chăm cây vừa nghĩ cách làm kinh tế thời vụ, anh bươn chải về Cam Lộ mua dê, lợn rừng về nuôi, nuôi lớn lại đưa vào tận Huế để bán cho các nhà hàng, quán nhậu. Hà bảo, mới đầu cách này cũng kiếm được kha khá tiền, nhưng sau này, bị bắt trộm nhiều quá, lại đâm nản. Vốn là dân vùng trồng tiêu đầy kinh nghiệm, anh quay về Phú Quốc, đem giống tiêu đặc sản của quê hương về với vùng đất Bướm Bạc cằn cỗi. Vụ tiêu được mùa, có tiền để làm đường phục vụ cho việc đi lại. Đắp đổi năm này qua năm khác, ba con người miệt mài phát rừng trồng cây, làm đường, làm lán. Vụ thu hoạch rừng đầu tiên năm 2002, anh bán rừng bạch đàn được 70 triệu, đầu tư làm nhà và làm thủy điện nhỏ, phục vụ cho việc tưới tiêu. Cha con anh cũng bỏ ra một số tiền không nhỏ làm 8 km đường nối từ đồi về tận Quốc lộ 1A, trước là để thuận tiện cho xe vào rừng chở gỗ, sau là phục vụ cho bà con đi rừng thuận tiện. Gần hai chục năm bươn chải với đất đồi, cây rừng, gia sản mà cha con anh gây dựng đến bây giờ là gần 250 ha rừng, trong đó chủ yếu là keo tai tượng và bạch đàn. Với 5 chiếc xe các loại phục vụ cho việc trồng và thu hoạch, mỗi năm bình quân thu nhập của gia đình khoảng từ sáu trăm đến bảy trăm triệu đồng, cá biệt có năm thu hoạch được 1,4 tỷ đồng từ sản phẩm của rừng. Không nhận mình là triệu phú rừng như mọi người vẫn nhắc đến, anh Hà chỉ nghĩ một cách giản dị: “Mình là người nông dân, nhờ đất nhờ rừng có chút của ăn của để, nhờ các chú phù hộ mới có rừng xanh tốt để thu hoạch, nên càng phải tri ân người đi trước, cố gắng thực hiện mong mỏi của cha mình”. Thêm một mét đất là thêm cơ hội tìm thấy mộ liệt sĩ Như tâm nguyện của cha, lên đồi Bướm Bạc trước là để tìm đồng đội, sau nữa là phủ xanh đồi, suốt những năm bám đất bám rừng, anh Hà cùng cha để tâm tìm kiếm nhiều hài cốt liệt sĩ. Ông Hội - cha của anh, từng nuôi dưỡng một niềm tin mãnh liệt rằng vẫn còn rất nhiều đồng đội của ông đang nằm lại trong lòng đất, chờ một ngày được đón về. Niềm tin ấy được truyền cho những người con. Năm 2008, ông qua đời. Anh Hà lại tiếp nối hành trình dang dở ấy của cha. Khi điều kiện kinh tế đã ổn định, anh Hà đầu tư mua xe ủi, xe múc, xe ba cầu… phục vụ cho việc làm rừng. Xe múc, ngoài hiệu quả phục vụ cho việc làm đường, làm lô trồng cây một cách nhanh, thuận lợi, tiết kiệm sức người tối đa, thì còn có một lý do nữa để anh Hà quyết định đầu tư mua loại phương tiện này. Với diện tích múc rộng và độ sâu vượt trội so với dùng cuốc sẽ dễ dàng để anh phát hiện những khu vực nào có hài cốt liệt sĩ. Lăn lộn vùng đồi này gần hai chục năm, anh Hà kể cho chúng tôi nghe một kinh nghiệm rất tâm linh. Đó là hễ vùng nào có hài cốt, thì rất nhiều lần xe của anh bỗng dưng chết máy không rõ lý do, đến thợ sửa xe cũng khó tìm ra nguyên nhân. Mỗi khi phát hiện thấy dấu vết bọc ni-lông thường dùng để bọc hài cốt, anh nhanh chóng báo cho Huyện đội và các đơn vị liên quan để phối hợp cất bốc. Anh nhớ rõ từng chi tiết mỗi lần tìm thấy hài cốt liệt sĩ. Hiếm hoi lắm mới tìm được bộ hài cốt còn nguyên vẹn, bởi bom đạn ác liệt cày xới vùng đất này. Những di vật như bút máy Hồng Hà, dép cao su, lọ thuốc đựng tên tuổi, sổ tay, đồng hồ, hay bức ảnh người yêu… chính là những thứ còn sót lại để thân nhân liệt sĩ có thể nhận dạng được người thân của mình. Từ buổi khai khẩn đầu tiên đến thời điểm này, cha con anh Hà đã tìm được khoảng 20 bộ hài cốt liệt sĩ cất bốc đưa về nghĩa trang huyện. Cứ lặng lẽ từng ngày một, mỗi khoảnh đất mới anh vỡ hoang khai khẩn đều được chú ý tìm kiếm cẩn thận, để cố gắng không bỏ sót một đồng đội nào của cha mình còn âm thầm nằm trong lòng đất. Cũng chính lẽ đó mà dù bận rộn quanh năm với rừng, với trang trại nhưng anh Hà không ngần ngại bỏ hàng chục ngày trời đi theo chỉ dẫn cho những người thân lên vùng đồi này tìm mộ liệt sĩ. Đồi Bướm Bạc giờ với anh đã thông thuộc trong lòng bàn tay nhưng anh bảo, chỉ biết đến rừng mà chưa thể biết hết trong lòng đất. Bởi chắc chắn, với sự ác liệt của cuộc chiến trên cứ điểm này, vẫn còn rất nhiều đồng đội cha mình chưa được tìm thấy. Hai mươi năm đã qua, và có thể nhiều hơn nữa, trên hành trình khai khẩn đất hoang trồng rừng, trồng cao su như trong dự định của người thanh niên giàu ý chí và nghị lực này vẫn còn đau đáu một tâm nguyện chưa thành của người cha mà anh sẽ tiếp tục thực hiện. Bởi chính anh đã chạm tay vào sứ mạng thiêng liêng này, là tìm kiếm đồng đội của cha mình. Đồi Bướm Bạc giờ đã phủ màu xanh của bạt ngàn cây rừng. Anh Hà bảo, trong màu xanh ấy, có sự đắp bồi của đất phù sa đã thấm xương máu của biết bao liệt sĩ và cây rừng nơi đây cũng mang cả linh hồn. Anh và những thế hệ sau này được huởng lộc từ cây và tri ân điều đó. Bài, ảnh: THANH TRÚC