Lời cảm “Lối ta về”
Ảnh: An Sĩ Hải

Lời cảm "Lối ta về"

Ảnh: An Sĩ Hải

“Lối ta về” là một khúc nhạc đồng quê, réo rắt reo vui suốt từ khổ thơ đầu đến khổ thơ cuối, cứ như nghe tiếng ríu rít của cả một bầy chim chiền chiện, nghiêng cánh chao mình trên dòng sông Hiếu. Tất nhiên là có cả nao nao chạnh lòng, nhưng điều đó không hề phá vỡ tổng thể chung của cái đẹp xốn xang, rạo rực trong “Lối ta về”. Nào là hoa cỏ bên đường. Nào là hoa tràm vàng tỏa hương. Nào là lao xao nắng mới. Rồi bến nước. Rồi con đò. Rồi đồng xanh ngô lúa. Có cả một căn nhà, ngập trong tiếng chim, chìm trong khóm lá, dâng làn khói mỏng chiều hôm. Và... cả bóng áo nâu em gái nào cắt cỏ. Tất cả là quê hương ùa ập gọi về. Gọi về với một thời khăn quàng đỏ. Gọi về với ngày xưa tuổi chớm biết yêu. Trong vắt trong veo, hồn nhiên hồn hậu, mà chan chứa nồng nàn tình đất tình người, chính là tất cả những gì Đức Tiên muốn gởi gắm trong “Lối ta về”. Lối ta về bông cỏ li ti Xui ta nhớ tuổi học trò thơ bé Lối ta về đường hun hút gió Hoa tràm vàng trổ hương sắc ngày vui. Bài thơ mở đầu với bốn câu gợi về thời thơ bé. Âm hưởng thơ ngân rung dòng chảy của ký ức. Giản đơn, nhỏ nhoi, dung dị và hiền lành; cả hương, cả sắc, cả một bức tranh gắn với ký ức học trò. Nhưng đó không phải là ký ức về trường, về lớp, về thầy cô, bè bạn. Đó là miền ký ức của những kỷ niệm với quê hương thuở còn đi học. Đức Tiên có nhắc đến trường, có nhắc đến khăn quàng đỏ, nhưng dụng ý thơ anh vẫn muốn hướng người đọc, cùng với thơ anh về với quê anh, về với một làng quê bên dòng sông Hiếu. Buổi tan trường bước chân thơ ngây Khăn quàng đỏ lao xao nắng mới Đò vắng khách neo bờ đón đợi Sông Hiếu lặng lờ con nước êm trôi. Trưa tan trường lao xao nắng mới. Dự cảm về tương lai thuở ấy, cháy rực lên màu khăn quàng đỏ. Dòng chảy cảm xúc của khổ thơ thứ hai này, vẫn tiếp tục được khơi nguồn từ khổ thơ thứ nhất, nhưng đã bắt đầu có sự chuyển hướng, khi mà tác giả nhắc đến bến đò vắng khách, nhắc đến dòng sông Hiếu lặng lờ. “Lối ta về” dường như đã bắt đầu lắng lại. Hơi thơ nhuồm nhuộm sắc màu của Nam Ai, Nam Bình, tự nhiên trở nên man mác và sâu lắng, níu kéo ta về với một nỗi niềm rất thật. Lối ta về sỏi đá quen hơi Gánh hàng rong, tiếng rao mời tan loãng Bước chân vội xua nỗi niềm hoang lạnh Khúc trầm buồn rơi rụng bến mơ hoa ! So với hai khổ thơ đầu, từ ngữ biểu đạt mạch nguồn cảm xúc của Đức Tiên, ở khổ thơ thứ ba này, từ gam màu nóng đã chuyển sang gam màu trung tính, rồi nghiêng hẳn về gam màu lạnh. Tác giả với bút pháp ảnh hưởng khá rõ thơ Tiền chiến, bắt đầu gieo vào lòng người đọc những “nỗi niềm hoang lạnh”, những “khúc trầm buồn” “rơi rụng” trên “bến mơ hoa”. Dường như đó là một nỗi niềm thật đến chạnh lòng, khi mạch thơ chạm vào “sỏi đá”, chạm vào “gánh hàng rong”, chạm vào tiếng “rao mời tan loãng”. Cảm thức chớm nở một tình yêu xao xuyến mơ hồ chợt ùa về. Mới đầu chỉ là nỗi nhớ về ngôi nhà ấy, nhớ về những sợi nắng “kẻ vàng” “soi tia” qua “khóm lá”. Nhớ về những “làn khói mỏng lẫn trong chiều nền nã”. Vậy mà tất cả như sống dậy, “ru hồn ai lãng đãng khúc trầm u”. Tình người, tình đời gắn quyện vào nhau, trong câu trong chữ. Căn nhà ai réo rắt chim ca Nắng kẻ vàng soi tia khóm lá Làn khói mỏng lẫn trong chiều nền nã Ru hồn ai lãng đãng khúc trầm u! “Lối ta về” đã hát khúc ru của thơ theo một cung bậc khác, không phải là của “trầm tư” tác giả, mà là “trầm u” thuở ấy quê nhà - mà tác giả không muốn kể ra, không muốn nhắc đến, tác giả chỉ chạm khẽ vào rồi buông lơi để đó. Khổ thơ thứ năm xuất hiện, chính là sự trở lại của mạch nguồn cảm xúc chủ đạo, góp phần làm nên thần thái của một bức tranh quê dìu dịu, làm nên nét trữ tình đôi lứa rất nhẹ mà rất lắng, rất mơ hồ mà rất đẹp, với “đồng xanh lúa ngô”, với “màu áo nâu” và “bóng em cắt cỏ”. Hồn quê xưa đườm đượm, gợi nhớ một câu hò thương thương nhớ nhớ, gợi nhớ một sắc trời xanh đến da diết chạnh lòng. Tình ý không làm thay đổi không gian thơ, nhưng đã làm sáng lên một tình cảm chớm vào yêu rất đẹp. Lối ta về đồng xanh lúa ngô. Màu áo nâu bóng em cắt cỏ Hồn quê xưa vắng câu hò thương nhớ Da diết một trời xanh biếc màu mây Nhớ về tuổi học trò là nhớ về sự hồn nhiên trong sáng, nhưng nhớ về quê nhà thuở ấy, là nhớ về những hiện hữu có thật, của một làng quê nghèo bên dòng sông Hiếu. Đức Tiên không hề nhắc một dòng nào về chiến tranh, mặc dù đích thực tuổi thơ của Đức Tiên, từng sống trong khói lửa chiến tranh tràn ngập quê nhà. Ở đây không phải là sự trốn tránh sự thật chiến tranh của tác giả, mà là dụng ý hàm chứa một bình diện khai thác nghệ thuật, về bức tranh quê, theo hướng bức tranh quê, ẩn chứa trong đó một nỗi niềm, một tình yêu dường như chỉ mới là rung động đầu đời. Cảm thức về một tình cảm đẹp thuở hồn nhiên thơ trẻ đã qua, kèm theo cả sự trộn lẫn cảm xúc tuổi mới chạm vào biết thương biết nhớ, “Lối ta về” của Đức Tiên được khai thác theo hướng tìm về cái đẹp của tâm hồn, cái đẹp của cảm nhận, gạt bỏ đi tất cả tang tóc đau thương của một thời lửa đạn. Trên nền tảng ý tưởng thơ rất nhẹ nhàng thanh thoát ấy, “Lối ta về” khép lại với khổ thơ thứ sáu, theo hướng nhìn nhận những giá trị nhân văn, đã và đang trở thành những nét đẹp dung dị, của một làng quê bên bờ sông Hiếu. Lời thơ như reo như hát, mà vẫn đằm thắm, tha thiết tin yêu tới lạ lùng. Đường thân quen sao cứ ngỡ đâu đây Mỗi ngày qua xóm hồng thêm sắc mới Lối ta về lời ru bổi hổi! Bóng đổ dài theo bước ta qua... Không dài, không ngắn, “Lối ta về” vừa đủ để say lòng người, để người đọc còn cảm thấy khát tiếc, muốn được đọc thêm, nhưng lại cũng có được cảm giác hài lòng, của sự trọn vẹn trong chừng mực thơ của thơ, không nên đòi hỏi thêm nhiều hơn. Và sự thật, “Lối ta về” cũng không hề khép lại, bởi sự buông thả dấu chấm lửng của tác giả cuối bài thơ. Âm ba “Lối ta về” ngân vang như một điệp khúc, chính là nỗi niềm xao xuyến không tan mà bài thơ đọng lại. Vĩnh Long, 15/9/2008 Hồ Tĩnh Tâm