Điều kiện “cần và đủ” để xây dựng Cảng nước sâu Mỹ Thủy và Khu kinh tế biển Đông-Nam Quảng Trị
Ngày 23/8/2008, UBND tỉnh tổ chức Hội thảo khoa học góp ý xây dựng Đề án phát triển Cảng nước sâu Mỹ Thủy và Khu kinh tế biển Đông Nam Quảng Trị. Hội thảo đã trở thành một diễn đàn quan trọng quy tụ được tiếng nói khách quan, trung thực của các nhà khoa học, tận tâm và chí tình của các đồng chí lãnh đạo tỉnh vì sự phát triển của tỉnh nhà.  Hội thảo khẳng định sự cần thiết phải xây dựng đề án Cảng nước sâu Mỹ Thủy và Khu kinh tế biển Đông- Nam Quảng Trị. Bởi trước hết Quảng Trị có vị trí địa lý ...

Điều kiện "cần và đủ" để xây dựng Cảng nước sâu Mỹ Thủy và Khu kinh tế biển Đông-Nam Quảng Trị

Ngày 23/8/2008, UBND tỉnh tổ chức Hội thảo khoa học góp ý xây dựng Đề án phát triển Cảng nước sâu Mỹ Thủy và Khu kinh tế biển Đông Nam Quảng Trị. Hội thảo đã trở thành một diễn đàn quan trọng quy tụ được tiếng nói khách quan, trung thực của các nhà khoa học, tận tâm và chí tình của các đồng chí lãnh đạo tỉnh vì sự phát triển của tỉnh nhà. Hội thảo khẳng định sự cần thiết phải xây dựng đề án Cảng nước sâu Mỹ Thủy và Khu kinh tế biển Đông- Nam Quảng Trị. Bởi trước hết Quảng Trị có vị trí địa lý chiến lược của một ngã ba quốc tế với các trục giao thông quan trọng. Đặc biệt là tuyến đường 9 nằm trên Hành lạng kinh tế Đông - Tây thuộc tiểu vùng sông Mêkông mở rộng. Đây là tuyến đường nối liền lục địa Tây Nam Á rộng lớn với biển Đông, thông qua cửa ngõ Quảng Trị hàng hóa có thể vận chuyển đi khắp nơi trong nước, trong khu vực và ngược lại. Dọc Hành lang kinh tế Đông - Tây đã và đang từng bước hình thành các khu công nghiệp, khu trung tâm dịch vụ thương mại và du lịch đầy hấp dẫn. Tuy nhiên đến nay Quảng Trị chưa có một cảng biển đủ tầm cỡ ngay điểm cuối đường 9 để thực sự trở thành một đầu mối giao thông liên hoàn. Ở nước ta hiện nay có trên 100 cảng biển nằm dọc theo 3216 km bờ biển nhưng chỉ có 4 cảng có công suất trên 10 triệu tấn/năm và 14 cảng có công suất trên 1 triệu tấn/năm. Trong khu vực miền Trung chỉ có cảng Vũng Áng có công suất 1 triệu tấn/năm, nhưng chỉ đủ phục vụ cho mỏ sắt Thanh Khê (Hà Tĩnh). Vì vậy nếu coi kinh tế biển là ""trục chính"" của phát triển kinh tế thì việc mở thêm các cảng có lợi thế, theo đó phát triển các khu kinh tế mở, hình thành nên các đô thị mới là cần thiết. Dự báo đến năm 2020 sẽ có khoảng 200 triệu tấn hàng thông qua các biển Việt Nam và tăng thêm 350 triệu tấn trong 10 năm tiếp theo. Với xu thế này, nước ta cần phải nâng công suất hệ thống cảng biển năm 2010 lên gấp 2 lần trong điều kiện vừa thừa cảng vừa thiếu cảng như hiện nay. Vì vậy nhu cầu hình thành một khu kinh tế biển tầm cỡ tại điểm cuối phía Đông của đường 9 trên cơ sở xây dựng cảng biển nước sâu là khách quan và bức thiết. Theo đó khu vực Mỹ Thủy và vùng ven biển từ Cửa Việt trở vào phía Đông Nam Quảng Trị là địa điểm thuận tiện và phù hợp để xây dựng cảng biển nước sâu nhân tạo theo phương pháp cảng đào với nhiều điểm ưu việt. Hệ thống cảng biển này có khả năng tiếp nhận một cách thuận lợi và hiệu quả các tàu biển trọng tải đến 40000 DWT. Trong đó xây dựng luồng tàu vào cảng gồm đê chắn sóng phía Đông- Nam đến độ sâu -15 m với chiều dài khoảng 1,3 km. Xây dựng kè chắn cát phía Tây Bắc đến độ sâu -11 m, chiều dài khoảng 600 m. Nạo vét luồng tàu 1 chiều với độ sâu luồng -13 m, chiều dài luồng khoảng 1,5 km, chiều rộng luồng khoảng 300 m, khối lượng nạo vét ước tính khoảng 5-7 triệu m3. Việc hình thành cảng biển nước sâu Mỹ Thủy là bước đi ban đầu rất quan trọng, là bước đột phá tạo cơ sở để Quảng Trị phát triển kinh tế biển nói riêng và kinh tế - xã hội nói chung. Sự xuất hiện của cảng biển nước sâu Mỹ Thủy tạo cơ sở cho việc hình thành một Khu kinh tế biển quy mô lớn với hàng loạt các ngành kinh tế khác như công nghiệp đóng tàu biển, công nghiệp khai thác chế biến khí đốt, nhà máy điện, vật liệu xây dựng, vật liệu mới công nghệ cao... Từ những thông tin dự báo và những cơ hội đầu tư lớn trong thời gian gần đây về vùng ven biển Quảng Trị, Tập đoàn tàu thủy Việt Nam (VINASHIN) đang tiến hành xây dựng nhà máy đóng tàu tại Quảng Trị, đồng thời có nhu cầu xây dựng khu liên hiệp công nghiệp tại Khu vực Gia Đẳng- Mỹ Thủy. Bên cạnh đó Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PETRO VIET NAM) đang tiến hành lập đề án quy hoạch tổng thể phát triển ngành công nghiệp khí Việt Nam đến năm 2015 trên cơ sở dự báo có mỏ khí Báo Vàng ở lô 112, 113 có trữ lượng lớn đủ nguồn nhiên liệu cho hai nhà máy điện khí công suất 750 MW/nhà máy. Cùng với nguồn khí này có thể cung cấp nhiên liệu đốt cho các lò nung, lò hơi cho các nhà máy sản xuất vật liệu xây dựng, gốm sứ thủy tinh, vật liệu mới. Đối với các ngành vật liệu xây dựng tại khu vực cát ven biển 2 huyện Hải Lăng và Triệu Phong có nguồn cát trắng lộ thiên trữ lượng hàng trăm tỉ m3 với hàm lượng silic SiO2 cao. Việc khai thác nguồn cát trắng này cho phép phát triển ngành thủy tinh, men màu gốm sứ, vật liệu xây dựng, vật liệu mới công nghệ cao như compôzit, bông thủy tinh cách âm, cách nhiệt, chống cháy, xi măng trắng và xi măng đặc biệt... Từ những luận cứ mang tính khoa học có tính ""thiên thời, địa lợi"" đáp ứng cho việc xây dựng Cảng nước sâu Mỹ Thủy và Khu kinh tế biển Đông-Nam Quảng Trị, tại hội thảo nhiều ý kiến đã đề cập đến lợi thế so sánh về tiềm năng của Quảng Trị khi xây dựng cảng đào so với các địa phương khác. Vị trí, vai trò và mối liên kết trong phát triển vùng của khu kinh tế Mỹ Thủy đối với tỉnh Quảng Trị, đối với khu vực miền Trung, với các nước Đông Nam Á và xa hơn là châu Âu, châu Mỹ... Trước hết Cảng đào nước sâu Mỹ Thủy sẽ đóng vai trò gì và như thế nào trong bối cảnh "" tổng lượng hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam ngày càng tăng""? Tính khả thi của cảng Mỹ Thủy đối với việc xuất khẩu vật liệu xây dựng (cát trắng, mỏ đá vôi...) của tỉnh và các địa phương lân cận. Phải chăng vì chưa có cảng đào nước sâu nên các nguồn tài nguyên của Quảng Trị chưa thể trở thành hàng hóa có tính cạnh tranh cao? Nếu so sánh với các cảng nước sâu như Vũng Áng- Hòn La, Chân Mây- Tiên Sa, Dung Quất- Kỳ Hà gần như nằm liền kề nhau thì cảng Mỹ Thủy nằm ở giữa cung độ từ Hòn La đến Chân Mây trên 300 km, là cảng thông ra biển Đông gần nhất của Hành lang Đông -Tây cho phép rút ngắn hành lang này trên 150 km, không phải qua đèo thì việc xây dựng cảng nước sâu Mỹ Thủy có quy mô tiếp nhận tàu có trọng tải trên 40.000 tấn là hợp lý. Đây là cảng trung chuyển ngoài hàng hóa, container, trung chuyển xăng dầu, khí đốt cho các tỉnh bắc miền Trung và các nước dọc hành lang kinh tế Đông- Tây. Mặt khác cảng Mỹ Thủy với công nghệ cảng đào có điều kiện quy hoạch gắn với khu công nghiệp sẽ tiết kiệm được chi phí đầu tư và nạo vét luồng lạch... Tính khoa học của quy hoạch cảng biển căn cứ vào các yếu tố như nguồn hàng (chân hàng) để tính toán khối lượng thông qua cảng. Hiện nay ở Quảng Trị mỗi năm nhu cầu hàng hóa thông qua cảng khoảng 11 triệu tấn. Nhưng cảng nước sâu Mỹ Thủy có nhiều lợi thế khi nó trở thành cảng trung chuyển hàng hóa cho hành lang Đông- Tây. Sự rút ngắn cung đường trên lãnh thổ Việt Nam đồng nghĩa với việc giảm chi phí vận chuyển sẽ thu hút hàng hóa, nguyên vật liệu XNK của các nước trong tiểu vùng sông Mêkông. Đây là điều kiện tiên quyết để xây dựng cảng biển Mỹ Thủy. Tuy nhiên, khi nhấn mạnh đến vai trò của cảng biển nước sâu Mỹ Thủy trên hành lang kinh tế Đông- Tây cần phải biết rằng trên hành lang này Thái Lan có cảng biển nước sâu Laem Chabanh, tuy có yếu thế hơn với cảng của Việt Nam về khoảng cách nhưng được giới xuất nhập khẩu quốc tế đánh giá rất cao về hiệu quả vận chuyển. Tại miền Trung có cảng Tiên Sa (Đà Nẵng), Chân Mây (Thừa Thiên Huế)... nhưng hiệu quả kinh tế của các cảng biển này chưa cao. Do đó việc đầu tư cảng biển nước sâu Mỹ Thủy cần phải có sự phân tích, tính toán sao cho phù hợp. Đặc biệt là nghiên cứu vai trò và vị trí của tỉnh Quảng Trị trong việc tận dụng giá trị, vị thế của mình trong chiến lược ""hai hành lang, một vành đai kinh tế"" do Trung Quốc đề xuất. Đó là vành đai Vịnh Bắc Bộ, Hành lang kinh tế Đông- Tây, Hành lang kinh tế Nam Ninh- Singapore, trong đó rất chú trọng đến mặt biển nên Quảng Trị phải nghiên cứu tận dụng thỏa thuận hợp tác kinh tế thân thiện (CEPA). Việc xây dựng cảng biển nước sâu trong nội địa bằng phương pháp cảng đào là một mô hình rất mới ở Việt Nam. Mặt khác nhu cầu vận tải của nước ta đòi hỏi phải có chiến lược lâu dài nên việc chọn vị trí thế nào để sử dụng công nghệ ra sao nhằm tránh rủi ro cho công trình và không xáo trộn đời sống nhân dân, tác động đến môi trường của khu vực là những vấn đề cần phải được nghiên cứu và phân tích thỏa đáng. Đó chính là những thách thức đang đặt ra đối với các chủ đầu tư và tỉnh Quảng Trị trước lúc thống nhất đưa ra chủ trương triển khai xây dựng Cảng biển nước sâu Mỹ Thủy và Khu kinh tế biển Đông Nam Quảng Trị. Hồ Nguyên Kha (Lược ghi tại Hội thảo)