Về thăm làng An Thơ
(QT) - Vùng đất An Thơ, xã Hải Hòa, huyện Hải Lăng (Quảng Trị) được xem là nơi phát tích, nuôi dưỡng nên nhiều bậc anh tài của dòng họ Nguyễn Đức trong lịch sử. Đây là một dòng họ có truyền thống khoa bảng, nghiệp quan từ lâu đời và có đóng góp nhất định trong một số giai đoạn lịch sử. Đây còn là nơi lưu giữ nhiều di tích lịch sử có giá trị văn hóa và nghệ thuật khiến những người say mê nghiên cứu luôn muốn đến tìm hiểu. Độc đáo lăng mộ 240 năm tuổi Với những người dân thuộc dòng họ Nguyễn ...

Về thăm làng An Thơ

(QT) - Vùng đất An Thơ, xã Hải Hòa, huyện Hải Lăng (Quảng Trị) được xem là nơi phát tích, nuôi dưỡng nên nhiều bậc anh tài của dòng họ Nguyễn Đức trong lịch sử. Đây là một dòng họ có truyền thống khoa bảng, nghiệp quan từ lâu đời và có đóng góp nhất định trong một số giai đoạn lịch sử. Đây còn là nơi lưu giữ nhiều di tích lịch sử có giá trị văn hóa và nghệ thuật khiến những người say mê nghiên cứu luôn muốn đến tìm hiểu. Độc đáo lăng mộ 240 năm tuổi Với những người dân thuộc dòng họ Nguyễn Đức, lăng mộ của Cao tổ đời thứ 8 Nguyễn Đức Uyên là một công trình mang đến niềm tự hào to lớn. Lăng mộ này không chỉ tồn tại khá nguyên vẹn trong suốt 240 năm tại một vùng đất có khí hậu khắc nghiệt, là điểm nóng của những trận chiến trong suốt chiều dài lịch sử, mà còn là một trong số những lăng mộ cổ có quy mô lớn so với nhiều lăng mộ khác trên địa bàn tỉnh. Theo những văn bản lịch sử mà làng An Thơ còn lưu lại, Nguyễn Đức Uyên từng giữ chức Đội trưởng dưới triều chúa Nguyễn, khi ông mất được phong là Anh Nghi Tướng quân Đội trưởng, tước Phương Danh Hầu. Lăng mộ của ông tọa lạc bên sườn một quả đồi thuộc hữu ngạn sông Ô Giang, thuộc địa giới hành chính thôn Lương Sơn, xã Hải Chánh, huyện Hải Lăng. Trên văn bia dựng ở lăng mộ có khắc rõ thời điểm hoàn thành lăng là “Cảnh Hưng tam thập nhị thiên tuế thứ Tân Mão thập nhị thập tứ nhân tạo” – có nghĩa lăng mộ được hoàn thành vào ngày 24 tháng 10 năm Tân Mão, Cảnh Hưng thứ 32, tức là năm 1771.

Một nghi lễ trong lễ đón nhận Bằng Di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh Lăng mộ Nguyễn Đức Uyên

Chúng tôi được ông Nguyễn Đức Thắng (62 tuổi), người làng An Thơ trực tiếp dẫn đường đến lăng mộ của ông Nguyễn Đức Uyên. Nằm cách quốc lộ 1A chừng 6 km về phía tây, vị trí lăng mộ khá hẻo lánh. Lý giải về điều này, ông Thắng cho biết: “Thời điểm năm 1771 diễn ra nhiều cuộc chiến tranh Trịnh – Nguyễn, Trịnh – Mạc, việc xây dựng một lăng mộ quy mô bề thế còn bị cấm đoán, cho nên lăng mộ của ông Nguyễn Đức Uyên nằm ở một nơi hẻo lánh, xa xôi là điều dễ hiểu”. Đến tận nơi mới có thể thấy được rằng, lăng mộ của ông Nguyễn Đức Uyên tọa trên một địa thế gần như hội đủ các yếu tố của thuật phong thủy. Từ một quả đồi thoai thoải, người ta san thành một khu vực bằng phẳng để dành cho việc xây dựng lăng mộ. Tiếp giáp phía sau quả đồi này là một dãy những quả đồi lớn nhỏ có bình độ cao dần, tạo thành phần tựa lưng – hậu chẩm vững chắc cho lăng mộ. Hướng chính của lăng mộ mở ra phía bắc, từ trên triền đồi nhìn về phía trước là sông Ô Giang chảy ngang qua hướng Tây-Đông tạo nên minh đường thoáng rộng. Xa hơn nữa là một quả đồi lớn nằm ở chính diện tạo nên một tiền án. Hai bên lăng mộ có hai dải đồi thấp chạy theo hướng Đông Bắc-Tây Nam và Đông Nam- Tây Bắc chầu về tạo ra thế Tả Thanh Long-Hữu Bạch Hổ một cách trọn vẹn. Điều gây ấn tượng nhất về lăng mộ Nguyễn Đức Uyên là sự quy mô, bề thế và nguyên vẹn trên diện tích khoảng 400 m 2 . Nhìn toàn cục, lăng mộ gồm 2 phần: Phần phía trước khá rộng có thể xem như là khu vực bái đình, được tạo thành hệ thống tường thành và cổng trụ có kích thước dày, rộng, có hình dạng như hai hình chữ nhật phía trong. Phần phía sau là khu tẩm – nơi đặt mộ cùng bia đá. Với lối kiến trúc như vậy, từ ngoài phần cổng đi vào mộ phải qua 3 lần cổng với tổng chiều dài hơn 10 m.

Các bậc cao niên trong làng dạy bảo con cháu qua những bài thơ cổ

Bao quanh ngôi mộ có 2 lớp thành. Lớp ngoài được xây dựng đơn giản làm nhiệm vụ như một lớp hàng rào. Lớp phía trong là vòng uynh lăng bao quanh ngôi mộ có cửa mở ra phía trước. Vòng uynh trong được tô vữa, tạo dáng công phu và mang tính nghệ thuật cao. Hai vòng cung hai bên tạo thành hình tượng 2 con rồng uốn lượn với vân xoắn trên thân và đường xoắn trôn ốc 3 lớp ở đầu; 2 đầu rồng tạo thành 2 trụ cổng dẫn vào ngôi mộ. Về phía trước hai bên trụ cổng, người ta đã nối dài thêm 2 mảng tường thành bằng các mô típ trang trí vân xoắn được tạo dáng theo hình tượng giao long nằm ngửa, lượn bẻ gấp rồi vươn ra phía trước, rẽ về 2 hướng phía bên thành lăng. Phần phía sau được xây dựng cao hơn hẳn để tạo dáng cuốn thư như một bức bình phong che chắn mặt sau của ngôi mộ. Nằm chính giữa trung tâm lăng mộ, ngôi mộ được xây dựng theo kiểu rùa nằm nhằm thể hiện sự trường tồn vĩnh cửu, cấu tạo thành 3 lớp theo dạng bậc cấp và nhỏ dần từ dưới lên. Phía trước ngôi mộ là một tấm bia bằng đá sa thạch nguyên khối được chạm trổ khá công phu và khéo léo với nhiều hoa văn, họa tiết tạo hình rồng. Chính giữa tấm bia là dòng Hán văn được khắc chìm: “Việt Cố Đội trưởng dưng chi Nguyễn hầu chi mộ”, mặt sau khắc dòng chữ ghi lại ngày hoàn thành lăng mộ. Với những gì còn lưu lại, lăng mộ Nguyễn Đức Uyên đã cung cấp nhiều thông tin quý giá về quy cách, kỹ thuật, nghệ thuật xây dựng lăng mộ, đồng thời góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lịch sử của công cuộc mở mang vùng đất phía Tây Hải Lăng vào giai đoạn thế kỉ 17 – 18. Vừa qua, UBND tỉnh đã ra quyết định xếp hạng di tích kiến trúc nghệ thuật Lăng mộ Nguyễn Đức Uyên là di tích cấp tỉnh, điều này càng chứng tỏ giá trị to lớn của khu lăng mộ này. Chung tay giữ gìn những giá trị văn hóa Liên quan đến lăng mộ Nguyễn Đức Uyên cũng như dòng họ Nguyễn Đức, hiện nay tại thôn An Thơ vẫn còn tồn tại một ngôi từ đường 181 năm tuổi. Theo gia phả dòng họ, ngôi từ đường này được xây vào thời triều Nguyễn năm 1832. Đây là một công trình chứa đựng nhiều giá trị về lịch sử, văn hóa, khoa học…Hiện nay, nơi này còn lưu giữ một số tài liệu, thư tịch có giá trị như bản gia phả dòng họ được làm từ năm Cảnh Hưng thứ 2 – 1741, đặc biệt là 15 bản khắc gỗ gắn trong nhà thờ ghi lại 15 bài thơ bằng chữ Hán có nội dung dạy bảo con cháu về việc đối nhân xử thế và khuyên dạy con cháu theo học điều nhân nghĩa. Ông Nguyễn Đức Cư (54 tuổi), người quản lý ngôi từ đường này cho biết: “Cứ mỗi khi lễ tết, con cháu họ tộc tề tựu đông đủ về ngôi từ đường để nghe các bậc cao niên răn dạy theo những điều viết trên bản khắc gỗ. Đây cũng là nơi dòng họ tổ chức những hoạt động mang tính văn hóa tập thể…”. Hàng năm, từ ngày 10 – 12/6 âm lịch, dòng họ Nguyễn Đức lại tổ chức cho con cháu tảo mộ tại lăng mộ Nguyễn Đức Uyên cũng như những khu mộ lớn nhỏ khác để bày tỏ lòng thành kính, ghi nhớ công ơn của tổ tiên. Những ngày này, con cháu trong làng sẽ tập trung tu sửa lăng mộ, phát quang bụi rậm, quét dọn lăng mộ, từ đường sạch sẽ… Mỗi lần tảo mộ là một dịp con cháu được nghe kể tích xưa, chuyện cũ về truyền thống đáng được trân trọng, tự hào của dòng tộc để tự răn mình sống có ích hơn nữa với gia đình, xã hội…

Lăng mộ 240 năm tuổi Nguyễn Đức Uyên với lối kiến trúc độc đáo

Em Nguyễn Đức Lâm (20 tuổi), tự hào cho biết: “Tuổi thơ của em lớn lên với những câu chuyện của ông bà về truyền thống và niềm tự hào của dòng họ. Chính niềm tự hào đó khiến chúng em phải nỗ lực hơn nữa để vươn lên thành công trong cuộc sống, không phụ sự kỳ vọng của những người đi trước”. Được biết, Lâm là một trong những con cháu của dòng họ Nguyễn Đức đạt thành tích cao trong học tập, đạt danh hiệu học sinh giỏi cấp quốc gia lớp 12, giải khuyến khích kỳ thi học sinh giỏi Toán quốc gia. Hiện Lâm là sinh viên năm thứ 3, Trường Đại học Kiến trúc thành phố Hồ Chí Minh. Trải qua hàng trăm năm lịch sử cùng với sự tàn phá của thời gian, chiến tranh, những di tích quý giá ở làng An Thơ đã bị xâm hại nghiêm trọng và đứng trước nguy cơ bị hư hỏng. Những người con cháu dòng họ Nguyễn Đức đã chung tay, góp sức đóng góp tiền của để bảo tồn những tài sản quý giá mà tiền nhân để lại. Năm 2009, dòng họ Nguyễn Đức đã đóng góp được hàng trăm ngày công, mang vác hơn 70 tấn vật liệu đến lăng mộ Nguyễn Đức Uyên để hoàn thành việc tu sửa lăng mộ. Đây là minh chứng rõ nét nhất cho đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” của người dân Việt Nam nói chung và dòng họ Nguyễn Đức nói riêng. Bài, ảnh: MINH HIỂN