Nỗ lực phấn đấu vì mục tiêu “No ấm, bình đẳng, tiến bộ và hạnh phúc” trong mọi gia đình
* NGUYỄN HỮU THẮNG, Giám đốc Sở VH, TT & DL Quảng Trị Gia đình là tế bào của xã hội, là nơi duy trì nòi giống, là môi trường quan trọng hình thành, nuôi dưỡng và giáo dục nhân cách con người, là nơi bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp, tạo nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Nhiều gia đình cộng lại mới thành xã hội, gia đình tốt thì xã hội mới tốt, xã hội tốt thì gia đình càng tốt. Hạt nhân của xã hội là gia đình”. Tư tưởng Hồ Chí Minh đã được Đảng và Nhà nước quán triệt trong Nghị quyết của các kỳ đại hội Đảng và trong các bộ luật liên quan, với các nội dung hướng tới việc củng cố vị trí, vai trò và chức năng của gia đình trong sự nghiệp phát triển kinh tế- xã hội đất nước. Sau 25 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, đất nước đã đạt được những thành tựu quan trọng trong phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh, góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho mọi gia đình. Kinh tế hộ gia đình ngày càng phát triển và thực sự đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Phong trào xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở lấy đối tượng làng, bản, đơn vị, gia đình làm mục tiêu phấn đấu đang ngày càng phát triển, góp phần gìn giữ và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc. Công tác xoá đói giảm nghèo, giải quyết việc làm đã giúp cho hàng triệu gia đình thoát nghèo và nâng cao mức sống. Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách hỗ trợ cho các gia đình đặc biệt khó khăn, gia đình có công với cách mạng, gia đình ở vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn. Công tác DS-KHHGĐ, công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em đã đạt được những thành tựu quan trọng, góp phần xây dựng gia đình hạnh phúc và xã hội ngày càng ổn định, phát triển.
 |
Mái ấm gia đình . Ảnh: LỆ NHƯ |
Ở Quảng Trị, với sự nỗ lực của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân, nền KT-XH đã có những bước phát triển rất cơ bản. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực. Kinh tế hộ gia đình không ngừng phát triển. Các chính sách, giải pháp giảm nghèo được thực hiện và đi vào cuộc sống của người dân trong từng gia đình, góp phần vào sự nghiệp phát triển KT-XH của địa phương. Đặc biệt, qua 5 năm triển khai thực hiện Quyết định số 106/2005/QĐ-TTg, ngày 16/5/2005 của Thủ tướng Chính phủ; Chỉ thị 49- CT/TƯ, ngày 21/2/2005 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về xây dựng gia đình thời kỳ CNH, HĐH đất nước, mặc dù còn khó khăn nhưng công tác gia đình bước đầu có những chuyển biển tích cực. Công tác quản lý nhà nước về gia đình từ tỉnh đến cơ sở được các ngành, các cấp, các đoàn thể quan tâm nhiều hơn, trong đó chú trọng xây dựng gia đình “no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc”. Quan hệ bình đẳng giữa nam và nữ trong các gia đình được tôn trọng, phụ nữ tham gia phát triển kinh tế, tham gia vào các cấp ủy đảng, bộ máy chính quyền, đoàn thể các cấp và các hoạt động xã hội khác ngày càng chiếm tỷ lệ cao. Quy mô gia đình ít con được áp dụng rộng rãi trong xã hội, gia đình hạt nhân (mỗi cặp vợ chồng có 1 đến 2 con) đang dần chiếm ưu thế. Mức sống gia đình được nâng cao: 100% xã phủ sóng điện thoại cố định. Các tiêu chí trong kết cấu hạ tầng cơ sở là : điện, đường, trường, trạm ở 100% xã, phường, thị trấn đã đạt được. Diện phủ sóng truyền hình, thông tin liên liên lạc cơ bản đã kết nối. Phong trào xây dựng gia đình văn hoá không ngừng được nâng cao cả về số lượng lẫn chất lượng, trở thành một phong trào quần chúng rộng khắp. Đến nay, toàn tỉnh đã có 117.002/134.110 gia đình được công nhận GĐVH (đạt 87 %); 1.467/1.799 làng, bản, khu phố, cơ quan, đơn vị được công nhận làng, bản, khu phố, cơ quan, đơn vị văn hóa, đạt tỷ lệ 81, 5%; 850/941 làng văn hóa được BCĐ phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” các cấp đánh giá đã thực hiện tốt nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội, đạt 90%; có 91.459 cán bộ hội viên phụ nữ đăng ký xây dựng gia đình “no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc”, trong đó có 78.391 hội viên đạt chuẩn (chiếm 86%). Toàn tỉnh có 496 CLB gia đình hạnh phúc, là nơi để các thành viên có thể chia sẻ tâm tư và giải quyết những khúc mắc nảy sinh trong cuộc sống và nhận được những lời khuyên, tư vấn để có thể giữ vững hạnh phúc gia đình. Tỷ lệ nam, nữ thanh niên trước khi kết hôn được trang bị kiến thức hôn nhân và gia đình, hiểu biết về dân số, sức khỏe sinh sản, kế hoạch hóa gia đình ngày càng cao. Bên cạnh đó, nhằm nâng cao nhận thức, trách nhiệm của gia đình và cộng đồng trong việc phòng, chống BLGĐ, từ năm 2008, Bộ VH,TT&DL đã triển khai thử nghiệm mô hình phòng, chống bạo lực gia đình (BLGĐ) tại Quảng Trị. Sau 3 năm triển khai thực hiện, BCĐ, Ban chủ nhiệm các CLB đã tích lũy nhiều kinh nghiệm, xây dựng các CLB, mô hình góp phần giảm tình trạng BLGĐ. Ý thức trách nhiệm của cộng đồng dần được nâng cao. Việc xây dựng các CLB Gia đình phát triển bền vững đã đáp ứng nhu cầu của của xã hội hiện nay, là nơi sinh hoạt, trao đổi kiến thức, kinh nghiệm sống, giáo dục, tư vấn và hỗ trợ ngăn ngừa BLGĐ . Tuy nhiên quá trình đổi mới và hội nhập đang đặt gia đình và công tác gia đình trước nhiều khó khăn, thách thức mới. Mặt trái của cơ chế thị trường, lối sống thực dụng, đã tác động mạnh tới mô hình gia đình truyền thống, một số giá trị truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam đang mai một và có nguy cơ rạn nứt. Tình trạng ly hôn, ly thân có xu hướng gia tăng. Một bộ phận cha mẹ thiếu sự quan tâm, chăm sóc con cái hay con cái ngược đãi với cha mẹ. Tình trạng chung sống không kết hôn, lối sống buông thả, quan hệ tình dục trước hôn nhân diễn biến phức tạp. Tệ nạn rượu chè, cờ bạc, ma tuý, mại dâm đang là vấn đề còn nhiều bức xúc. Nạn bạo hành, tình trạng thanh, thiếu niên phạm tội đang có chiều hướng gia tăng. Cấp ủy, chính quyền ở một số địa phương chưa thực sự quan tâm đến công tác gia đình, nhận thức về vị trí, vai trò của gia đình còn hạn chế, lúng túng trong chỉ đạo, điều hành, chưa có biện pháp, giải pháp cụ thể cho các hoạt động của chương trình, nguồn lực chưa đáp ứng với nhu cầu đang đặt ra. Công tác quản lý nhà nước về lĩnh vực gia đình ít được quan tâm, chưa triển khai sâu rộng, thường xuyên đến tận cơ sở và đến gia đình. Công tác phối hợp liên ngành, kiểm tra xử lý vi phạm về BLGĐ còn nhiều bất cập. Công tác tuyên truyền, giáo dục kiến thức về hôn nhân gia đình chưa được chú ý đúng mức, nội dung tuyên truyền chưa phù hợp với đặc thù từng vùng, miền và từng địa phương, tính xã hội hoá của công tác tuyên truyền về gia đình còn hạn chế. Phương tiện truyền thông trực tiếp, pa nô, áp phích, khẩu hiệu, tài liệu, sách, báo, tờ rơi... còn thiếu. Đội ngũ cán bộ làm công tác gia đình ở các địa phương vừa thiếu về số lượng, vừa yếu về chuyên môn, thiếu kỹ năng truyền thông, tư vấn nên quá trình tổ chức các hoạt động về gia đình còn lúng túng. Để tiếp tục thực hiện và hoàn thành các chỉ tiêu của công tác gia đình, xây dựng gia đình thời kỳ CNH, HĐH đất nước theo Chỉ thị 49- CT/TƯ, ngày 21/2/2005 của Ban Bí thư Trung ương Đảng, trong năm 2011 và những năm tiếp theo, cần tập trung thực hiện một số nhiệm vụ sau: 1. Tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền đối với công tác gia đình; đầu tư, hỗ trợ nguồn lực cho công tác gia đình. Có kế hoạch và biện pháp cụ thể phòng, chống tệ nạn xã hội và bạo hành trong gia đình. Thực hiện tốt công tác phối hợp giữa các sở, ban, ngành, đoàn thể liên quan để tuyên truyền về công tác gia đình, lồng ghép công tác gia đình với phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá” và phong trào xây dựng nông thôn mới, tạo động lực thúc đẩy phát triển KT - XH củ a địa phương. 2. Đẩy mạnh công tác truyền thông về chính sách pháp luật liên quan đến xây dựng gia đình. Tiếp tục tuyên truyền Luật Bình đẳng giới, Luật Phòng, chống BLGĐ, Luật Hôn nhân và Gia đình... Phản ánh hoạt động về lĩnh vực gia đình của các địa phương, nêu gương cán bộ, nhân dân, các tập thể thực hiện tốt chính sách về gia đình trên địa bàn tỉnh . 3. Tạo sự phối hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường và xã hội để quản lý, giáo dục trẻ em, tạo cho trẻ em có những sân chơi lành mạnh, bổ ích, hướng trẻ em đến các hoạt động thiết thực có ý nghĩa nhằm trang bị kiến thức, kỹ năng sống cho trẻ em phù hợp với đặc điểm của từng lứa tuổi. 4. Tổ chức khảo sát toàn diện về công tác gia đình, BLGĐ, nhằm phân tích, đánh giá và lưu trữ dữ liệu gia đình, BLGĐ làm căn cứ đề xuất các giải pháp tích cực cho công tác gia đình. Đồng thời tiếp tục củng cố, nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ làm công tác gia đình các cấp, đặc biệt là cấp huyện và cấp cơ sở. 5. Tổng kết mô hình điểm phòng, chống BLGĐ xã Hải Thượng, huyện Hải Lăng để rút kinh nghiệm, nhân rộng mô hình trên địa bàn tỉnh. Gắn phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá” với thực hiện hương ước, quy ước, quy chế dân chủ cơ sở tổ chức thực hiện thắng lợi cuộc vận động “Gia đình 5 không, 3 sạch” do Trung ương Hội LHPN Việt Nam và Bộ VH, TT&DL phối hợp triển khai gắn liền với các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng danh hiệu “gia đình văn hóa” để từng bước nâng cao nhận thức, lối sống, kỹ năng ứng xử của từng thành viên trong gia đình, làm cho gia đình thực sự trở thành điểm tựa vững chắc của một xã hội văn minh và phát triển