Giải pháp nào để hỗ trợ sinh kế ngư dân vùng biển?
(QT) - Như chúng tôi đã đề cập trong số báo 4916, thứ 4 ngày 20/7/2016 bàn về tính khả thi của các giải pháp mà Sở Nông nghiệp và PTNT tỉnh đưa ra trong hội nghị tìm giải pháp hỗ trợ sinh kế cho ngư dân vùng biển bị thiệt hại do sự cố môi trường biển vừa qua. Với mục đích tìm ra giải pháp phù hợp và hiệu quả nhất nhằm ổn định cuộc sống trước mắt và lâu dài cho hơn 8.000 hộ dân bị ảnh hưởng, chúng tôi tiếp tục đưa ra những kiến nghị, đề xuất của ngư dân trong chuyển đổi sinh kế và những vướng ...

Giải pháp nào để hỗ trợ sinh kế ngư dân vùng biển?

(QT) - Như chúng tôi đã đề cập trong số báo 4916, thứ 4 ngày 20/7/2016 bàn về tính khả thi của các giải pháp mà Sở Nông nghiệp và PTNT tỉnh đưa ra trong hội nghị tìm giải pháp hỗ trợ sinh kế cho ngư dân vùng biển bị thiệt hại do sự cố môi trường biển vừa qua. Với mục đích tìm ra giải pháp phù hợp và hiệu quả nhất nhằm ổn định cuộc sống trước mắt và lâu dài cho hơn 8.000 hộ dân bị ảnh hưởng, chúng tôi tiếp tục đưa ra những kiến nghị, đề xuất của ngư dân trong chuyển đổi sinh kế và những vướng mắc về cơ chế chính sách cần tháo gỡ. Không bỏ biển! Chiều muộn nơi làng chài Phú Hội, xã Triệu An, Triệu Phong, tôi cùng ngư dân Nguyễn Văn Giới ngồi ở bậc thềm nhà. Nắng chiều rọi thẳng vào khuôn mặt ông dạn dày 50 năm theo nghề biển. Tôi dạm hỏi: Dạo này chắc ông nghỉ đi biển dài dài? Ông Giới trố mắt nhìn tôi rồi khẳng định chắc nịch rằng: “Đang mùa trăng nên tôi nghỉ mấy ngày, tối ni lại tiếp tục ra khơi. Từ tết đến nay nhà tôi không bỏ đi biển chuyến mô. Cá chết, bán không ai mua nhưng cha con tôi ngày nào cũng ra biển. Gắn bó máu thịt với biển rồi, mần răng bỏ được hả chú? Cá không ai mua thì chúng tôi chuyển sang câu mực, tìm kiếm các ngư trường xa hơn để bắt cá thu, cá ngừ mới có nơi tiêu thụ đủ nuôi sống 7- 8 miệng ăn trong gia đình”.

Tàu xa bờ là niềm mơ ước của ngư dân vùng biển

Sự khẳng định dứt khoát của ông Giới cùng nhiều ngư dân khác suốt chiều dài bờ biển từ Vĩnh Thái đến Hải Khê về quyết tâm bám biển để mưu sinh, bám biển để góp phần bảo vệ chủ quyền biển đảo quốc gia là lời đanh thép từ trái tim, từ tình yêu biển cả. Nhưng bám biển như thế nào, chung sống với biển ra sao quả là một bài toán khó. Phó Chủ tịch UBND xã Triệu An Nguyễn Văn Phương cho biết, toàn xã có 65 tàu thuyền và 74 thuyền thúng. Trong đó tàu có công suất từ 90 CV trở lên có 23 chiếc, tàu có công suất > 90 CV có 33 chiếc. Năm 2015, sản lượng hải sản đánh bắt 1.826 tấn, giá trị thu nhập từ nghề biển đạt 38,4 tỷ đồng, chiếm gần 57% tổng giá trị sản xuất trên địa bàn. Điều này cho thấy vai trò, vị thế của nghề biển đối với cuộc sống ngư dân và đối với sự ổn định, phát triển kinh tế của Triệu An. Nhiều ngư dân cho rằng đi biển là đối mặt với vô vàn hiểm nguy nhưng ngược lại nếu gặp may trúng mẻ cá thì đủ nuôi sống cả gia đình suốt một vài tháng trời. Bình quân một tàu biển dưới 90 CV đánh bắt đạt từ 30- 50 triệu đồng ngày, vì thế thu nhập từ nghề biển là khá cao nên dù biển có bị ô nhiễm gần bờ nhưng ngư dân vẫn quyết tâm bám biển. Thực tế cho thấy quyết tâm bám biển của ngư dân xuất phát từ nhiều lý do, trong đó phải kể đến tâm lý thạo nghề, thạo việc của ngư dân. Giải pháp chuyển đổi sinh kế đầu tư trồng trọt và chăn nuôi mà ngành nông nghiệp đưa ra ở vùng đất thấp sản xuất lúa, ngô, khoai lang, đậu, đỗ, kiệu, tỏi, rau màu; vùng đất cao trồng lạc, ngô, khoai lang, rau đậu, ném, rau màu, đặc biệt là chủ trương chuyển đổi 1.600 hộ ngư dân sang sản xuất chăn nuôi (mỗi xã 100 mô hình chăn nuôi, trong đó: nuôi bò kết hợp trồng cỏ 10 hộ, nuôi lợn nái 20 hộ, nuôi lợn thịt 30 hộ, nuôi gà thịt 40 hộ) liệu có khả thi? Khó khăn trước tiên phải kể đến là tập quán sản xuất của ngư dân. Từ nghề biển quen với mành lưới, con thuyền nay chuyển sang cầm cuốc và chăm đàn gia súc, gia cầm liệu là một khó khăn. Anh Dương Thanh Phương ở xã Gio Việt (Gio Linh) thú nhận: “Dân quen đi biển suốt đêm, sáng sớm vào bờ bán cá rồi trở về nhà nghỉ ngơi đến chiều tối lại ra biển. Nếu làm nông nghiệp, suốt ngày phải bám với đất đai, chuồng trại, tôi cam đoan rằng không có ngư dân nào thích thú. Quen với sóng gió rồi, không cầm cuốc, cầm cày được!”. Rõ ràng bám biển là nguyện vọng và nhu cầu chính đáng của ngư dân. Điều quan trọng là phải tìm ra một giải pháp khả thi nhất để hỗ trợ. Đối với ngư dân vùng cửa lạch là chính sách nâng cấp tàu thuyền có công suất lớn để đánh bắt xa bờ, tránh xa vùng biển đang bị ô nhiễm. Nhưng còn dân vùng bãi ngang thì sao, việc nâng cấp tàu thuyền là một câu chuyện khó bởi thiếu nơi neo đậu, thiếu trình độ khai thác đánh bắt và nhiều lực cản khác. Sau sự cố môi trường biển, Sở Nông nghiệp và PTNT đã tiến hành khảo sát nhu cầu của ngư dân. Kết quả cho thấy trong tổng số 2.826 tàu thuyền hoạt động khai thác ven bờ thì có nhiều ngư dân mong muốn được đóng tàu mới có công suất lớn để vươn khơi bám biển. Cụ thể là nhu cầu đóng mới tàu đánh cá xa bờ của ngư dân khoảng 50 đến 70 chiếc, trong đó loại tàu trên 400 CV là 20 chiếc, từ 90 CV đến dưới 400 CV là 50 chiếc với tổng số vốn đầu tư khoảng trên 700 tỷ đồng. Nhưng hiện nay trở ngại lớn nhất vẫn là thiếu nguồn vốn để triển khai. Thiếu quỹ đất sản xuất Trong báo cáo mà ông Võ Văn Hưng, Giám đốc Sở Nông nghiệp và PTNT trình bày tại hội nghị bàn sinh kế cho ngư dân vùng biển có đưa ra số liệu thống kê: Tổng diện tích đất tự nhiên của 16 xã vùng biển ở 4 huyện Vĩnh Linh, Gio Linh, Triệu Phong và Hải Lăng là 17.138,6 ha, trong đó diện tích đất sản xuất nông nghiệp là 4.643,6 ha, chiếm 27% tổng diện tích đất tự nhiên. Điều này cho thấy quỹ đất nông nghiệp quá ít ỏi để tạo ra sinh kế ổn định đủ nuôi sống 77.326 nhân khẩu. Vậy nên trong giải pháp trồng trọt, ngành nông nghiệp đã không đề cập đến sản xuất lương thực mà tập trung vào trồng cây ngắn ngày và các loại hoa màu. Rõ ràng vấn đề trồng trọt trên vùng đất cát khô cằn và chua phèn nhiễm mặn không phải là chuyện dễ. Mặt khác trồng trọt cũng chỉ là giải pháp nhất thời “lấy ngắn nuôi dài” chứ chưa thể đảm bảo tính bền vững lâu dài nếu không đảm bảo các yêu cầu về khoa học kỹ thuật và trình độ thâm canh. Trên thực tế cũng phải thừa nhận rằng, ở vùng cát ven biển hiện nay đang triển khai một số mô hình sản xuất có hiệu quả, điển hình như mô hình trồng ném, kiệu, hành trên đất cát ở xã Triệu Lăng (Triệu Phong) và xã Hải An (Hải Lăng); mô hình trồng các giống khoai lang mới, nuôi xen ghép tôm, cua, cá ở xã Vĩnh Giang (Vĩnh Linh) và xã Triệu Phước (Triệu Phong); mô hình trồng mướp đắng, đậu đen xanh lòng ở xã Triệu Vân (Triệu Phong); mô hình trồng đậu xanh tằm ở xã Vĩnh Giang (Vĩnh Linh), trồng tỏi tía, cà rốt ở xã Trung Giang (Gio Linh); mô hình trồng cỏ nuôi bò ở xã Hải An (Hải Lăng)…Tuy nhiên đây chỉ là hiệu quả bước đầu thử nghiệm chứ chưa thể nhân rộng, bởi còn phải phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác. Đơn cử như mô hình trồng cỏ nuôi bò là cần một diện tích đất khá lớn để canh tác trong khi quỹ đất ở các địa phương rất hạn hẹp nên nếu phát triển vài chục mô hình trên một địa bàn xã thì liệu quỹ đất có đáp ứng không? Mặt khác cần phải tính đến đầu ra cho sản phẩm. Bởi đậu, khoai, hành, ném là các loại thực phẩm mà nhu cầu tiêu dùng ít trong mỗi gia đình. Nếu phát triển quy mô nhỏ thì có thể xuất bán lẻ ở địa phương nhưng khi phát triển quy mô lớn, nhiều hộ tham gia sản xuất thì cần phải có một thị trường tiêu thụ ổn định nên ngành nông nghiệp cần phải tính toán trước. Trong câu chuyện với anh Lê Bá Phước, Chủ tịch UBND xã Hải An (Hải Lăng) chúng tôi được biết địa phương chỉ mới đưa vào trồng trọt 31 ha trên tổng diện tích đất tự nhiên. Tuy nhiên trong các giải pháp chuyển đổi sinh kế mà ngành nông nghiệp đưa ra thì người dân lại không có nhu cầu hỗ trợ vốn để đóng mới, cải hoán, nâng cấp tàu thuyền vì biển bãi ngang không thể đóng thuyền to máy lớn. Do đó, cần phải nghiên cứu các mô hình chuyển đổi sản xuất như thế nào để người dân ổn định cuộc sống. Anh Phước thừa nhận một cái khó hiện nay là tâm lý của người dân. Mặc dù chính quyền địa phương và các cấp hội, đoàn thể đã tuyên truyền, vận động nhưng người dân vẫn chưa mặn mà lắm với chủ trương chuyển từ ngư nghiệp sang nông nghiệp. Nhưng nhờ tính tiên phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên mạnh dạn đi trước, làm trước nên toàn xã có 108 hộ đăng ký tham gia vào các mô hình trồng trọt. Hiện nay xã chỉ mới chuẩn bị được 12 ha đất dự kiến chia cho dân đưa vào sản xuất. Ngoài ra còn có 78 hộ đăng ký chăn nuôi bò, dê, cá lóc…trong đó phải kể đến hộ ông Phan Thanh Phú đăng ký triển khai mô hình nuôi bò quy mô lớn với số vốn đầu tư khoảng 1 tỷ đồng. Theo đó, hộ ông Phú sẽ được nhà nước hỗ trợ 200 triệu đồng. Qua đây cho thấy chính sách hỗ trợ chưa sát đúng với thực tế sản xuất của người dân. Bởi chỉ ưu tiên hỗ trợ mô hình đầu tư đến 1 tỷ đồng thì không thể nhân rộng được vì khả năng tài chính của ngư dân có hạn nên không thể đưa ra 1 tỷ đồng đầu tư để nhận được 200 triệu đồng hỗ trợ. Do đó, người dân mong muốn hạ thấp quy mô đầu tư, hỗ trợ các mô hình ít vốn hơn, chỉ vài trăm triệu đồng để họ dễ dàng tiếp cận mô hình cũng như thụ hưởng được chính sách hỗ trợ của nhà nước. Anh Phước mạnh dạn kiến nghị như thế. Trở lại với định hướng chuyển đổi 1.600 hộ ngư dân sang mô hình sản xuất chăn nuôi. Khi tiếp nhận chủ trương này ngư dân ở nhiều địa phương trong tỉnh rất phấn khởi, khẩn trương lên xã để đăng ký tham gia. Phó Chủ tịch UBND xã Gio Hải (Gio Linh) Hồ Xuân Thùy thừa nhận sau hội nghị bàn sinh kế là mỗi ngày có hàng chục ngư dân lên đăng ký chuyển đổi sản xuất. Xã cũng đã kịp thời nắm bắt nguyện vọng của dân, từ đó đưa 9 giải pháp chuyển đổi sản xuất nhưng quả thật giải pháp trồng trọt và chăn nuôi là nan giải nhất. Xã có 73 ha đất đã quy hoạch dự kiến cấp cho dân sản xuất nhưng đây là vùng đất hoang hóa, chưa có điện, đường giao thông và đặc biệt là chưa có quy hoạch chi tiết. Do đó, muốn cấp cho dân sản xuất cũng phải kêu gọi kinh phí đầu tư hạ tầng, đồng thời phải thuê tư vấn lập quy hoạch chi tiết mới đủ điều kiện cấp cho dân sản xuất. Ngoài ra còn có 15 ha đất đã có 2 hộ xin cấp để sả n xuất nhưng lại vướng vào tranh chấp với xã Gio Thành nên phải dừng lại. Một giải pháp có tính khả thi nhất đó là chuyển đổi, nâng cấp tàu thuyền. Trên thực tế Gio Hải trong những năm qua đã đóng mới 11 tàu công suất trên 90 CV đang khai thác có hiệu quả. Hiện nay ngư dân có nhu cầu đóng mới 20 tàu vỏ gỗ trị giá 8-10 tỷ đồng/chiếc nhưng khó khăn nhất chính là nguồn vốn vay . Để có đất sản xuất, nhiều địa phương trong tỉnh đã kiến nghị tỉnh cần tiến hành giao đất tạm thời cho dân, kể cả ở những vùng nằm trong quy hoạch. Đồng chí Nguyễn Giáp, Phó Chủ tịch UBND huyện Hải Lăng cho rằng, ngư dân ở 2 xã vùng biển không có nhu cầu nâng cấp tàu thuyền, chỉ tập trung đầu tư phát triển sản xuất. Vì vậy, tỉnh nên giao đất tạm thời cho dân ở những vùng đã quy hoạch phát triển Khu kinh tế Đông Nam nhằm giải quyết tình trạng thiếu đất sản xuất như hiện nay. Huyện Vĩnh Linh cũng đã kiến nghị tỉnh giao đất cho dân ở vùng quy hoạch phát triển du lịch Vĩnh Thái để huyện san ủi mặt bằng cấp cho dân mở rộng sản xuất. Xã Gio Hải (Gio Linh) cũng kiến nghị tỉnh tạm thời giao 44 ha đang quy hoạch phát triển du lịch để địa phương tam giao cho dân tổ chức sản xuất. Những đề xuất chính đáng này của các địa phương rất mong được tỉnh quan tâm giải quyết. Khó khăn về nguồn vốn đầu tư Thực tế cho thấy nhu cầu vốn của người dân để đầu tư phát triển sản xuất trên địa bàn tỉnh Quảng Trị là rất lớn. Theo tính toán ở huyện Vĩnh Linh nhu cầu đóng mới 12 tàu xã bờ trị giá hơn 120 tỷ đồng, nâng cấp 264 tàu trung bờ, tổng mức đầu tư cho hai loại tàu mà ngư dân Vĩnh Linh cần hơn 200 tỷ đồng. Vậy nhưng để người dân tiếp cận được nguồn vốn vay là vô cùng khó khăn, đặc biệt là nguồn vốn vay theo Nghị định 67. Hiện nay ở tỉnh Quảng Trị chỉ có 2 ngân hàng đó là Agribank Quảng Trị và Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển tỉnh Quảng Trị tiến hành cho vay vốn theo Nghị định 67, còn các ngân hàng thương mại khác trên địa bàn vẫn chưa triển khai nên chưa thể giải được “cơn khát vốn” trong dân. Đơn cử như trường hợp của ông Đinh Văn Thông ở xã Triệu An (Triệu Phong) có tàu cá công suất 200 CV, hiện tại tàu đã sử dụng lâu năm xuống cấp nên ông cần vay vốn để nâng cấp nhưng chưa thể đáp ứng được các tiêu chuẩn mà phía ngân hàng đưa ra. Vì thế ông Thông cùng nhiều hộ dân khác đã phải vật lộn trong chiếc tàu cũ đầy hiểm nguy. Chung với nỗi niềm với ông Thông là ngư dân Nguyễn Văn Giới ở thôn Phú Hội. Qua tìm hiểu chúng tôi được biết gia đình ông Giới có nhu cầu vay vốn để nâng cấp tàu thuyền. Mọi thủ tục đã hoàn thành trình phía ngân hàng thẩm định nhưng cái khó nhất là nguồn vốn đối ứng. Theo quy định của Chính phủ, điều kiện chế tài khi vay vốn đóng mới tàu vỏ sắt ngư dân phải có 50 % vốn tự có, tàu vỏ gỗ vốn đối ứng 30% nên nguồn lực tài chính trong ngư dân không đáp ứng đủ. Anh Trần Thanh Hải, Phó Chủ tịch UBND xã Gio Việt (Gio Linh) cho biết, hiện nay ngư dân địa phương có nhu cầu vay vốn đóng mới 10 chiếc tàu > 400 CV, bình quân mỗi chiếc khoảng 7-10 tỷ đồng; nâng cấp 30 chiếc, bình quân mỗi chiếc là 2 tỷ đồng. Tổng nguồn vốn mà ngư dân Gio Việt cần để đóng mới và nâng cấp tàu thuyền cũng gần 200 tỷ đồng. Vậy nhưng, khi dân làm các thủ tục vay cần phải có “sổ đỏ” thế chấp nhưng nhiều hộ không đáp ứng được vì “sổ đỏ” đã thế chấp từ trước hoặc chưa được cấp. Không còn cách xoay xở nào khác, ngư dân Gio Việt buộc phải trông chờ vào sự thay đổi cơ chế mới hy vọng tiếp cận được nguồn vốn. Trả lời câu hỏi vì sao ngân hàng từ chối nhiều trường hợp xin vay vốn để phát triển các mô hình sản xuất, ông Hoàng Minh Thông, Giám đốc Agribank Quảng Trị khẳng định rằng phía ngân hàng không bao giờ thiếu vốn mà chỉ thiếu những khách hàng có đủ độ tin cậy. Bởi xét ở khía cạnh trách nhiệm thì ngân hàng cần phải bảo toàn được đồng vốn vay. Tài sản thế chấp-một yêu cầu bắt buộc mà mỗi hộ vay phải có. Ngoài ra còn phải tính đến các yếu tố khác như phương án kinh doanh, khả năng hoàn trả vốn của từng trường hợp cụ thể mà mỗi cán bộ tín dụng của ngân hàng cần phải tìm hiểu thận trọng trước lúc quyết định cho vay. Chính vì nhưng quy định chế tài chặt chẽ nên đồng vốn của ngân hàng khó đến tay ngư dân. Đây là một trở ngại lớn trong quá trình chuyển đổi sinh kế cho ngư dân vùng biển mà các ngành chức năng tỉnh Quảng Trị cần phải tính đến . Đề xuất các giải pháp Các giải pháp hỗ trợ phát triển sản xuất, tạo thu nhập cho ngư dân là tổng hợp các yếu tố “thiên thời, địa lợi, nhân hòa” mà cụ thể là tính toán đến điều kiện địa lý, tự nhiên, xây dựng cơ chế chính sách hỗ trợ phù hợp và tổ chức triển khai một cách khoa học. Cụ thể là giúp ngư dân ở vùng cửa lạch đóng mới và nâng cấp tàu thuyền, chuyển đổi ngành nghề khai thác phù hợp với ngư trường đánh bắt nhằm đem lại sản phẩm có giá trị kinh tế cao; ngư dân vùng bãi ngang chuyển sang trồng trọt và chăn nuôi cần phải quy hoạch lại quỹ đất, lựa chọn cơ cấu cây trồng, con nuôi phù hợp, đồng thời tìm kiếm thị trường tiêu thụ ổn định. Mở rộng phát triển các loại cây trồng ngắn ngày, diện tích nuôi trồng thủy sản phù hợp với điều kiện sinh thái vùng cát, để giải quyết sinh kế ngắn hạn. Về lâu dài, mở rộng và hình thành các vùng chuyên canh tập trung, phát triển kinh tế trang trại gia trại theo hướng tổng hợp, gắn sản xuất nông nghiệp với nuôi trồng, khai thác thủy hải sản và dịch vụ. Về nguồn vốn vay đầu tư phát triển sản xuất, trước mắt đề nghị UBND tỉnh chỉ đạo các ngành chức năng đẩy nhanh tiến độ cấp giấy CNQSD đất cho ngư dân; đồng loạt triển khai việc cấp đất có thời hạn cho các hộ dân nằm trong vùng quy hoạch phát triển khu du lịch, khu kinh tế để người dân có tài sản thế chấp vay vốn ngân hàng. Kiến nghị với Chính phủ điều chỉnh các chế tài vay vốn đóng mới tàu theo Nghị định 67 và điều chỉnh, bổ sung hạn mức cho vay, lãi suất vay để người dân dễ dàng tiếp cận với nguồn vốn; đồng thời tích cực huy động vốn từ nhiều nguồn đầu tư khác nhau để hỗ trợ ngư dân có đủ nguồn vốn phát triển sản xuất…Có như vậy mới giúp ngư dân vùng biển vượt qua khó khăn, ổn định cuộc sống trước mắt và lâu dài. Bài, ảnh: HỒ NGUYÊN KHA