Chia sẻ trên mạng xã hội: Một ngày không như mọi ngày
(QT Xuân) - Tham gia mạng xã hội là một cuộc chơi vô định từ ngày này sang ngày khác, rảnh lúc nào chơi lúc đó. Cũng như trong cuộc đời, trên mạng có cả tốt, xấu, hay, dở. Chọn điều tốt, cái hay để “chơi”. Và tránh xa cái xấu, điều dở. Thế nên anh bạn Phan Tấn Linh, Giám đốc Sở Thông tin và Truyền thông Hà Tĩnh nói với tôi: “Chơi cái ni đau trôốc lắm bác ơi”. Vâng, đau trôốc (đau óc) lắm chứ nếu chơi một cách đàng hoàng, trí tuệ và sáng tạo. Mỗi ngày, mỗi phút phải tự làm mới mình và học hỏi cái mới, điều hay của thiên hạ. Một ngày không như mọi ngày. Xin ghi lại đây những khoảnh khắc mà lòng tôi còn neo giữ, trong những ngày lang thang trên mạng. "Sự gặp gỡ" giữ Hằng Mắm Ruốc và nhà thơ Mỹ Bruce Weigl Chuyện thạc sĩ Đào Thị Hằng (Ái Tử, Triệu Phong, Quảng Trị) không học lên tiến sĩ mà về quê theo nghề mắm ruốc và có biệt danh là Hằng Mắm Ruốc, nhiều người đọc báo, xem đài đã biết. Tại Liên hoan Phát thanh-Truyền hình Quảng Trị năm 2013, phim truyền hình “Thạc sĩ mê mắm ruốc và duyên nợ với quê nhà” đã đạt giải B. Năm 2004, Đào Thị Hằng đỗ thủ khoa Khoa Trồng trọt Đại học Nông lâm Huế. Do hoàn cảnh gia đình quá khó khăn, nhờ có học bổng “Tiếp sức đến trường” dành cho tân sinh viên Quảng Trị, Hằng mới theo học được. Sau bốn năm học, Hằng đã tốt nghiệp xuất sắc với tấm bằng kỹ sư nông nghiệp. Được Bộ Ngoại giao Úc tài trợ học bổng ALA (năng lực lãnh đạo), Hằng đã học ngành quản lý carbon tại Úc. Năm 2013, sau khi bảo vệ xong luận án cao học tại Úc, Hằng không tìm cách học tiếp tiến sĩ mà về nước và theo nghề… mắm ruốc.
 |
Đào Thị Hằng (giữa), người từng được “Tiếp sức đến trường” năm 2004 đã tham gia “Tiếp sức đến trường” cho các tân sinh viên Quảng Trị năm 2013 - Ảnh: QUỐC NAM |
Chuyện Hằng không theo con đường “tri thức hàn lâm” mà đi theo “tri thức thực tiễn” là điều đáng quan tâm, nhất là trong bối cảnh có không ít người chạy theo bằng cấp. Chuyện Hằng khiến tôi nhớ đến những điều đã đọc trong cuốn sách “Nền giáo dục của người giàu (Những tay tỷ phú học gì từ trường đời?)” của Michael Ellsberg, một tác giả người Mỹ (bản tiếng Việt do NXB Lao động - Xã hội xuất bản năm 2013). Trong cuốn sách này, Michael Ellsberg nêu rằng “tri thức thực tiễn” nhiều lúc đã đánh bại “tri thức hàn lâm” và không nên chạy theo bằng cấp: “Bạn không thể hành nghề y, luật, tâm lý liệu pháp, kỹ thuật mà không có bằng cấp, nhưng đối với hầu hết các lĩnh vực khác, việc chạy theo bằng cấp là một việc sai lầm. Thay vào đó, hãy tập trung học hỏi các kỹ năng cho bạn kết quả thực tế mà mọi người thực sự quan tâm và đáp ứng được những mong ước, nhu cầu thiết yếu của họ” (trang 158). Có thể sau này, Hằng trở lại với “con đường hàn lâm”, học lên tiến sĩ, nhưng điều đó không thuộc mối quan tâm ở đây. Để thành công với nghề mắm ruốc, cái Hằng cần phải có, không phải là tấm bằng tiến sĩ mà phải là những “tấm bằng chuyên gia mắm ruốc”, “chuyên gia marketing” mà cuộc sống và nhân dân cấp cho. Để có được những “tấm bằng” này, rõ ràng, những sản phẩm mang mác “Mắm Thuyền Nan” của Hằng phải đạt tất cả các chuẩn yêu cầu, phải có hương vị đặc trưng riêng, phải đăng ký sở hữu trí tuệ và phải được quảng bá, tiếp thị tốt, biến nhãn mác thành thương hiệu trong tương lai không xa. Trong phim truyền hình “Thạc sĩ mê mắm ruốc và duyên nợ với quê nhà” đã dẫn trên, có cảnh quay một người nước ngoài ăn và khen nước mắm Việt. Điều này khiến tôi nhớ đến một trường hợp người Mỹ mê nước mắm Việt. Đó là Bruce Weigl, một cựu binh Mỹ ở chiến trường Quảng Trị từ năm 1967 đến 1968 và là một nhà thơ. Bruce Weigl được đánh giá là một trong những nhà thơ xuất sắc nhất của nền văn học đương đại Mỹ. Tập thơ và hồi ký “Sau mưa thôi nã đạn” của Bruce Weigl đã được xuất bản bằng tiếng Việt, thông qua NXB Trẻ, TP Hồ Chí Minh, 2010 (Nguyễn Phan Quế Mai chuyển ngữ). Trong cuốn sách này, Bruce Weigl đã kể lại chuyện mình mê nước mắm Việt: “Tôi ăn với nước mắm bất cứ khi nào có thể ở chiến trường Việt Nam, nhưng cơ hội đó không nhiều. Dĩ nhiên nước mắm không nằm trong khẩu phần lương khô hoặc trong những bữa ăn được chuẩn bị cho lính Mỹ nơi căn cứ trại. Nhưng tôi luôn giữ hương vị của nó trong tâm trí tôi, và chỉ cần nghĩ về nước mắm là tôi đã ứa nước bọt” (trang 227). Theo Bruce Weigl, nước mắm có một “sức mạnh huyền bí để biến đổi hương vị của những loại thức ăn khác nhau, theo những cách khác nhau” (trang 231).
 |
Tác giả bài viết trên Vạn lý trường thành - Ảnh: THÁI HÒA |
Khi “giã từ vũ khí” về Mỹ, Bruce Weigl cho biết: “Tôi không mang nhiều văn hóa Việt theo về cùng tôi sau chiến tranh, nhưng tôi mang theo một tình yêu về một đất nước xanh như thiên đàng, nơi mà những con người tôi gặp luôn luôn tỏ ra tốt bụng và rộng lượng. Và tôi đem theo một sự nghiện ngập đối với nước mắm” (trang 229). Được người Việt bày cho cách làm nước mắm, sau khi về Mỹ, Bruce Weigl đã tập làm nước mắm. Bruce Weigl đã câu được những con cá hồi to nơi những con sông, dòng suối gần nhà, mỗi con nặng khoảng 2 đến 3 cân, đem về nhà làm sạch, phơi trên giàn và kê chảo bên dưới “để đón lấy chất lỏng từ những con cá đang rữa ra”. Do mùi cá nồng nặc bốc lên, cảnh sát tưởng có chuyện gì nghiêm trọng đã ập đến kiểm tra, hóa ra chỉ là mùi bốc lên từ… cá mắm. Bruce Weigl đã bình giá, đã “triết luận” về nước mắm Việt: “Đối với riêng tôi, mùi nước mắm đã trở thành mùi của đất nước Việt Nam khi tôi ở Mỹ và thương nhớ về đất nước thứ hai của tôi. Nước mắm ấy tôi đã đậy nắp thật chặt như một loại tinh hoa mà tôi cần phải mãi mãi giữ gìn” (trang 237). Vậy là niềm mê nước mắm của Hằng đã gặp gỡ với sự “nghiện ngập nước mắm” của Bruce Weigl. Điều còn lại tùy thuộc vào nỗ lực của Hằng: làm sản phẩm cho ngon và quảng bá tốt. Tôi chúc Hằng thành công với giấc mơ, với khát vọng “Mắm Thuyền Nan” vì dân của mình (con thuyền nan bé nhỏ đã nuôi Hằng khôn lớn). Được thế rồi, hỏi ai còn dám bảo: “Thuyền nan em bé nhỏ Không xa được bến bờ”? Màu khói bếp trên trần nhà ăn buffet ở Bà Nà Nhân ngày phụ nữ Việt Nam, cùng anh chị em cơ quan đi tham quan Khu du lịch Bà Nà. Nơi đây có khí hậu mát mẻ, có không gian “tiên cảnh”, có tuyến cáp treo đạt 4 kỷ lục thế giới, có nhiều trò chơi hấp dẫn, thú vị, mạo hiểm… ai cũng đã biết. Khi đã thấm mệt theo tour Bà Nà, với những trò chơi nhập ngoại, phim 4D, 5D ngoại… chúng tôi đến nhà ăn buffet để ăn trưa. Đang nhấm nháp dư vị các món ăn, chợt hai anh bạn trẻ Nguyễn Quang Vượng, Trương Hữu Quốc cùng nhìn lên trần nhà ăn sơn màu đen. Ngạc nhiên vì cả nhà ăn màu “trắng toát”, chỉ riêng trần nhà màu đen, Trương Hữu Quốc hỏi: - Sao họ sơn trần nhà ăn màu đen anh hè, trông cứ như họ quét phủ một lớp nhựa đường lên đó? - Người ta thường dùng màu đen để chống bụi, chống bẩn, vì màu trắng dễ nhiểm bẩn - Tôi trả lời Vượng và Quốc. Bất giác, tôi nhớ đến màu khói bếp ở nhà quê và bảo Vượng, Quốc: - Nói như thế cũng đúng mà nói rằng đây là màu khói bếp cũng đúng. Ngày trước, ở làng quê, không có bếp điện, bếp ga như bây giờ, mẹ vẫn thường đun bếp bằng củi, bằng rơm, bằng trấu… Trên bếp có chàn bếp để xếp đặt một số đồ vật, nồi niêu và dĩ nhiên, để… hứng khói bếp. Khói bếp len vào ruột quả mướp khô, khói bếp quyện vào mình mẩy những hạt giống hong trên bếp. Những hạt giống này khi gặp tiết trời và độ ẩm thích hợp sẽ cựa mình làm đất đai trở dạ, sinh nở. Ôi! Hạt mùa sau của mẹ. Khói bếp làm cho miếng da trâu mẹ hong trên chàn bếp cứng hơn, dai hơn để luộc ăn dòn tan ngọt ngào. Với cuộc sống đương đại này, màu khói bếp trên bếp ở nhiều nơi đã không còn. Bỗng dưng, ở Bà Nà, một không gian có nhiều thú chơi nhập ngoại, lại rưng rưng nhớ về màu khói bếp, màu “thuần Việt”, màu lam lũ, tảo tần của chị em phụ nữ Việt Nam. Lòng ngân lên câu hát “Ôi quê tôi” của Lê Minh Sơn: “Khói bếp bay lên nhà ai”. "Xăm - bai - đi" Ngày nghỉ, các em sinh viên Lào (tỉnh Xalavan) đến thăm nhà mình. Thằng con út nhà mình nói: "Mẹ ơi! Con biết chào theo tiếng Lào đó nhé! Xăm - bai - đi!" và láu lỉnh: "Mẹ chớ coi thường con đó". Tôi ngạc nhiên hỏi con: - Ba chỉ nghĩ là con biết chào bằng tiếng Anh thôi. Sao con biết chào bằng tiếng Lào? - Con xem phim "Bí mật tam giác vàng" và đọc sách, con biết chứ Một thoáng răn mình không được coi thường tri thức của bất kỳ ai, kể cả của con nít. Cảm ơn con út nhé. "Xăm - bai - đi" - Xin chào! Xin chào các bạn Lào!. " Xin chào nhau giữa con đường " (thơ Bùi Giáng) số 9!. Bữa ăn mời các em sinh viên Lào, chỉ có mấy món đơn giản do bà xã làm: cháo, thịt gà, bánh đa cuốn rau, thịt, thêm mấy lon bia, không cao lương mỹ vị nhưng ấm áp tình cảm như thể giữa những người đã quen nhau tự thuở nào. Tôi kể với các em sinh viên tỉnh Xalavan rằng tôi từng sang Lào, được ăn món lạp, ăn món canh chua có thả những con kiến vàng vào nồi canh tại Champasak. Vốn liếng tiếng Lào tôi có rất ít ỏi, chỉ biết một vài từ, vài câu như “bò hu” (không biết), “bò ngam” (không đẹp), “noọng ngam lai” (em đẹp lắm), nếu muốn nhấn mạnh thì thêm một tiếng “lai” nữa: “lai lai”. Bất giác, giữa bữa ăn, tôi chạnh nhớ về một anh bạn vong niên của mình ở Khe Sanh, Hướng Hóa từng lăn lộn thương trường ở Lào. Rủi thay, anh đã mất trong một vụ tai nạn xe cộ ở Hà Nội. Anh đi buôn nhưng hồn lãng tử. Trong những cuộc nhậu với tôi, anh thường kể chuyện bên Lào và cao hứng đọc hai câu thơ anh viết cho những cô gái Lào mà cũng để thầm nhủ với lòng mình: “Tiếng em anh biết chưa nhiều Cũng không mong nói những điều xa xăm” Vâng, không nói những điều xa xăm, cao siêu nào cả mà chỉ nói những điều bình dị, gần gũi. Tình nghĩa Việt-Lào sâu đậm mà mộc mạc, dung dị. Nên chi trong bữa ăn thân mật, tôi bày tỏ với các em sinh viên Lào: “Việt Nam thương Lào nhiều lắm đó”. Các em sinh viên Lào chia sẻ lại: “Lào cũng vậy, rất thương Việt Nam”. Nên chi, dù “biết chưa nhiều” tiếng Lào, nhưng lòng tôi vẫn “âm thầm nói” được rất nhiều điều với các bạn Lào yêu quý. Cảm nhận được sống với trạng thái phi ngôn ngữ này, có lẽ cũng giống với cảm nhận khi người ta được “ngộ”, được “thăng hoa”, được “mặc khải” chăng? " Vạn lý trường thành" trên ...giường Leo Vạn lý trường thành mệt bở hơi tai, ai nấy đều mồ hôi ròng ròng. Để cho đỡ mệt, tôi nhớ lại câu chuyện anh hướng dẫn viên du lịch đã kể trên xe tour dọc đường dẫn khách đến Vạn lý trường thành. Một hôm, có đoàn du khách đến tham quan Vạn lý trường thành thì trời vừa tối, phải nghỉ lại qua đêm. Mọi người đặt hết các phòng nghỉ. Chỉ còn lại một phòng cuối cùng cho hai người, một ông khách và một cô hướng dẫn viên du lịch đành phải nghỉ chung phòng. Phòng chỉ có một giường. Cô hướng dẫn viên nhường cho ông khách nằm nghỉ trên giường, còn cô nằm giữa sàn nhà. Ông khách mời cô nằm trên giường, chứ để cô nằm trên sàn nhà thì không đành lòng. Cô không chịu. Nể ông nằn nì mãi, cô chấp nhận lên nằm trên giường, với điều kiện là giữa hai người phải ngăn cách nhau bởi một chiếc gối đặt ở giữa. Hôm sau, cô dẫn đoàn khách lên Vạn lý trường thành. Đang dẫn khách leo lên từng bậc, từng bậc đá cao ngút mắt, bỗng có trận gió thổi mạnh, làm bay chiếc mũ đội đầu của cô xuống chân tường thành. Ông khách ở cùng phòng với cô hôm trước bèn nhảy ngay xuống chân thành, nhặt lấy chiếc mũ đem lên cho cô. Đột nhiên, cô giật lấy chiếc mũ rồi giận dữ tát mạnh vào má ông khách và la lớn: - Sao mà anh liều thế? Anh nhảy xuống thế, lỡ có mệnh hệ gì thì tôi biết làm sao đây. Dĩ nhiên là ông khách phải nín nhịn, chịu đau một tý nhưng lòng khấp khởi mừng thầm vì đã lập được một “chiến công” với người đẹp. Và thế là dọc đường vạn lý, hai người dàn hòa với nhau như thể đã thấu tỏ lòng nhau tự kiếp nào. Hôm đó, sau khi tham quan xong, trời cũng vừa tối, đoàn khách phải trọ lại ở nhà nghỉ dưới chân Vạn lý trường thành. Nhớ lại chuyện đêm qua, ông khách “khều” cô hướng dẫn viên một câu: - Hôm nay chắc không cần phải thuê đến hai phòng nữa chứ? Cô hướng dẫn viên hiểu ý, đấm yêu vào lưng ông khách thùm thụp. Được thể, ông khách nói dấn tới: - Và hôm nay chắc không cần dùng đến cái gối ngăn cách, cái “vạn lý trường thành” trên... giường nữa chứ? Cô hướng dẫn viên được phen đỏ bừng mặt như thể kéo lại được ánh ngày sắp tắt. Chợt nhớ ông hoàng thơ tình Việt Nam Xuân Diệu đã viết nên những vần thơ đầy khắc khoải về vạn lý trường thành trong lòng người: “Em là em, anh vẫn cứ là anh Có thể nào qua Vạn lý trường thành Của hai vũ trụ chứa đầy bí mật” (Xa cách) Ông khách du lịch và cô hướng dẫn viên kia đã vượt qua “vạn lý trường thành” đúng như niềm mong đến mỏi mòn, đến “gần như niềm tuyệt vọng” (Trịnh Công Sơn) của Xuân Diệu. Xưa Tần Thủy Hoàng ra lệnh xây Vạn lý trường thành là để bảo vệ Trung Hoa khỏi sự tấn công của người Hung Nô và các bộ tộc du mục khác. Xây Vạn lý trường thành để ngăn chiến tranh, nhưng Tần Thủy Hoàng có biết đâu rằng, chiến tranh là bắt nguồn từ những vạn lý trường thành trong lòng người, những vạn lý trường thành của định kiến, của thù hận... Vậy để chỉ có hòa bình và tình yêu thương, phải biết vượt qua vạn lý trường thành trong lòng người, vượt lên vạn lý trường thành của ngăn cách, chia cắt, định kiến, bạo lực, thù hận... NGUYỄN HOÀN