Svislach, sông rộng… một gang!
(QT) – “Ước gì sông rộng một gang/ Bắc cầu dải yếm cho nàng sang chơi” - Tôi mang theo câu ca dao Việt ấy sang Minsk. Và quả thực nơi dừng chân đã không làm tôi thất vọng. Dòng sông Svislach, nói một cách ví von cường điệu, có chiều ngang được đo bằng cái gang tay của câu ca dao! Svislach khẽ khàng bình dị trôi chầm chậm qua thành phố Minsk - thủ đô của đất nước Belarus. Sông lách đi một cách lặng thầm tựa như bao nhiêu ký ức đã dồn chật lại trong một dòng chảy cô đặc khiến người ta phải sững ...

Svislach, sông rộng… một gang!

(QT) – “Ước gì sông rộng một gang/ Bắc cầu dải yếm cho nàng sang chơi” - Tôi mang theo câu ca dao Việt ấy sang Minsk. Và quả thực nơi dừng chân đã không làm tôi thất vọng. Dòng sông Svislach, nói một cách ví von cường điệu, có chiều ngang được đo bằng cái gang tay của câu ca dao! Svislach khẽ khàng bình dị trôi chầm chậm qua thành phố Minsk - thủ đô của đất nước Belarus. Sông lách đi một cách lặng thầm tựa như bao nhiêu ký ức đã dồn chật lại trong một dòng chảy cô đặc khiến người ta phải sững sờ. Mỗi buổi sáng thức dậy, qua khung cửa kính từ trên tầng mười hai ký túc xá, Svislach đã nhấn nhá vào tôi những đường nét đầu tiên của ngày. Sông ấy, ba năm qua đã thành một người bạn của tôi, một tình bạn vong niên lạc qua thăng trầm bao kiếp nay lại gặp nhau, ôm chầm nhau mà vỗ sóng vào lòng. Nói sông rộng một gang là nói quá lên cho nó nhỏ lại chứ thực ra cũng chưa đến mức đó. Nếu cầu dải yếm của người Mường, Tày được bắc bằng quả còn ném chuyền tay mùa lễ hội, thì cầu dải yếm mà tôi bắc qua Svislach là một đường bay hòn sỏi. Đứng ở bên này bờ, tung một hòn sỏi nhỏ là người ở bờ bên kia có thể chụp được. Đấy là cách để ví von cho chiều rộng rất mực khiêm tốn của Svislach. Sự khiêm tốn của Svislach gợi cho tôi nhớ đến một dòng sông gắn liền với lịch sử Phật giáo và tự hỏi: Sông Anoma ở xứ Ấn xưa có hẹp đến mức ấy không mà hai ngàn năm trăm năm trước Thái tử Tất Đạt Đa đã cưỡi ngựa Kiền Trắc bay qua được? Rộng cũng sông mà hẹp cũng là sông, miễn sao có dòng chảy con nước và dòng chảy văn hoá lịch sử trôi trên đó.

Sông Svislach chảy qua thành phố Minsk
Như dòng Svislach, nó đã chứng kiến biết bao thăng trầm biến cố trên một vùng đất nhỏ. Từ thuở mẹ đất mà sông chảy qua e dè sợ sệt trước ý đồ thôn tính của Sa hoàng Nga, mẹ đất hẳn phải dị đỏ mặt lên khi người ta gọi đất nước này là Nga Trắng (Belo-Russia). Và mẹ đất đã thét gào như biện minh: “Không! Không phải thế! Belarus đơn giản chỉ là tên một vùng đất mà thôi!”. Cũng như tên nàng là Svislach mãi mãi, không ai được đồng hóa với một nàng công chúa nước bạn. Khác với người Việt mình, ở Belarus mọi vật đều được gọi tên một cách khái quát hóa cao. Ví như vài chục cây xanh trên một khoảnh đất, ở ta gọi là vườn, thì ở Belarus được gọi là rừng. Chính bởi cách gọi vống lên như thế nên Svislach mới được gọi là sông, chứ ở ta thì nó mới được gọi là rào, là rạch mà thôi. Sông nhỏ hẹp nhưng được cái chảy dài duyên dáng, nó uốn giữa Minsk như một chiếc phec-măng-tuya dán kín hai vạt áo của thành phố lại với nhau ấm áp. Tôi đặt ngón tay trỏ lên tấm bản đồ Belarus và kéo rê theo nét vẽ sông Svislach. Ngón tay cứ rung rung, dịch sang chuyển về như đang điều khiển cái núm trên bộ âm-ly của dàn nhạc. Tự bản thân Svislach đã tấu lên một bản nhạc muôn điệu: có khúc thong dong thả mình chậm rãi tựa slow, có chặng thì trữ tình sâu lắng như ballad; lại có khi tạo khúc lặp phách kiểu tango, đấy là chỗ sông xoáy chòm thành hồ nước Comsomol, nghỉ một tý rồi lại chảy tiếp theo lưu mạch. Tôi yêu sự yên tĩnh của Minsk, yên tĩnh một cách đáng thương! Thật là nơi trú ngụ yên lành cho những thiền sư nội tại. Sự yên tĩnh ấy có một phần đóng góp của Svislach, bởi không ai khác, chính nàng mang mệnh “thuỷ” đã làm dịu lại cuộc sống ở thành phố. Có một lần ở Huế, tôi ngồi bên quán cà phê Sông Trăng và nhìn ngược lên theo dòng chảy Hương giang để cảm nhận sự yên bình của cố đô. Những dòng sông chảy qua thành phố thủ đô, như sông Hương hay Svislach, đều có một sứ mệnh cao cả là cảm hóa lòng người và giữ chân viễn khách ở lại. Hương giang đã giữ tôi ở Huế hai năm, để mỗi ngày ngồi trầm mặc nơi bàn gỗ một quán cà phê ven sông thôi là đủ vui rồi. Còn Svislach nuôi dưỡng tâm hồn tôi ba năm, chỉ cần đóng kín mình trong phòng và thả mắt xuống dưới kia cũng đã là hạnh phúc, một niềm hạnh phúc không cần phải bỏ tiền ra mua nhưng vẫn đắt giá. Mỗi dòng sông đều có một vẻ đẹp riêng, vào mỗi mùa trong năm thì vẻ đẹp ấy lại được biến đổi. Svislach có lẽ là dòng sông giản dị và chất phác nhất, nàng ít khi đòi hỏi được thay áo mới. Nếu chia ra thì mỗi năm Svislach có hai sắc diện chính, vào mùa nắng thoáng và mùa tuyết lạnh. Tôi đến Minsk khi tiết trời vừa chớm thu. Lá hãy còn xanh và nước sông cũng xanh theo màu điệp của lá. Những ngày đầu ở nơi đất khách lạ lẫm, đôi khi thấy cô độc, nhưng chính màu xanh dịu hiền của Svislach đã khiến tôi an tâm và tưởng tượng đấy là màu của cánh đồng quê hương. Người ta bảo khi xa nhà, hãy đưa bàn tay lên, xoè ngửa ra và nhìn vào những đường chỉ tay, ta sẽ thấy hình ảnh mẹ. Còn tôi, tôi nhìn vào đường chỉ xanh mà Svislach đã kẽ lên giữa lòng đất mẹ Minsk, để thấy hình ảnh một vùng đất mẹ Việt. Tất cả sông rồi đổ về biển cả, vậy nên tất cả những gì thuộc về sông đều có chung một con đường ý thức dẫn ta vào cõi yêu thương. Svislach cố hữu màu xanh ấy trong suốt thời gian nó không bị đóng băng. Màu xanh là sắc điển hình nhất của dòng sông này. Tháng Năm trùng vào thời điểm sông xanh nhất sau mùa tuyết tan. Cái màu xanh khi ấy đã dẫn chân tôi dạo bộ dọc bờ đá và bắt gặp một vòm hoa Tử Đinh Hương đang độ bung sắc tím. Vài cánh hoa sợ gió dần buông mình xuống rồi trôi lặng lờ theo nhịp điệu con nước. Giả như một ngày mai tôi rời thành phố này, thì những cánh Tử Đinh Hương ấy sẽ níu mình về lại bên triền ký ức xanh tươi. Kỳ nghỉ hè của sinh viên, chúng tôi có thời gian để đi một số nơi ở Belarus. Tôi đã về biển Minsk, nước ở nơi ấy cũng tĩnh tại như đang ngọa thiền, sóng thì tịnh nhiên. Dường như ở đất nước này, tất cả đều diễn ra một cách chậm chạp. Ta có thể nhìn cái cách chảy e lệ hồn nhiên của Svislach để ví cho sự vận động nơi đây. Tôi hay cùng với một vài người bạn lang thang dọc bờ sông, chọn một chỗ thật khéo và nhấp vài ngụm bia. Ngồi bên Svislach khi chiều xuống, hoàng hôn sẽ ghé đến chỗ ta và hắt từ dưới sông lên những viên pha lê bằng nắng. Vài cánh chim bồ câu mạnh dạn cùng tham gia vào cuộc chơi của loài người. Chim bồ câu bay đến, rồi cứ tự nhiên nhảy vào mổ mồi nhậu, y như thể giữa chim và người đã không còn sự phân cấp giới động vật. Dưới kia, vài chú vịt gập ngược đầu lên cánh rồi để mặc nước đẩy đi. Vịt ở đây không do ai nuôi cả, chúng tự kiếm mồi trên sông để sống qua ngày qua tháng. Cũng chẳng ai biết số phận của loài vịt ấy. Chúng đến từ đâu và sẽ về đâu? Có lẽ chúng là cái mốc tiêu để người ta đo cường lưu nước sông Svislach. Hay chúng là những người tình của Svislach chẳng hạn. Những ngày nắng to, Svislach như một tấm gương, soi rõ mồn một mọi thứ. Rọi mắt nhìn vào đó, ta sẽ thấy rất nhiều hình ảnh mây trắng, có khi còn trắng hơn cả đám mây thực đang nô giỡn trên cao xanh kia. Cứ như là trời vì quá cưng chiều mà thả mây xuống sâu thẳm lòng nàng Svislach vậy. Ông trời là tay chơi lãng mạn luôn biết cách lấy lòng người đẹp. Mùa hè 2007, trong dịp kỷ niệm 940 năm ngày thành lập Minsk, tôi được nghe một điệu dân ca cổ xưa của xứ sở tuyết trắng. Lời hát mềm như dòng sông Svislach thuở sơ khai. Từ bấy đến nay, trải qua ngần ấy thời gian, thế thời thay đổi mà lời hát và dòng sông vẫn không hề chi. Một người bạn thủ thỉ vào tai tôi: Ở đây mọi thứ chắc còn nguyên vẹn như thuở ban đầu? Ừ, ở bất cứ nơi nào cuộc sống còn bảo lưu nét đẹp thuỷ nguyên thì ở đấy sự bình yên là dĩ tất! Dòng sông Svislach đã hóa thân thành một viện bảo tàng vĩ đại để cất giữ tất cả những thứ thiên tạo, nuôi dưỡng trong mạch văn hóa đặc sắc của xứ sở là văn hóa folklore, truyền lại cho muôn đời sau một bản khảm trổ vô hình giữa minh linh thiên - địa - giang. Những giá trị văn hóa tiềm ẩn dưới chiều sâu nước sông cứ thế mà thoảng lên đây lời ca, hay là hắt lên ánh ngọc chiều hè và qua mùa thu thì nước sông làm cho lá cây ven bờ chín sớm hơn cả. Đấy là điều tôi nhận thấy rõ nhất ở Minsk. Dọc kè đá bờ sông, cây cứ đứng như chàng trai si tình rũ lá xuống mà ngỏ lời yêu. Cuối thu, tất cả tóc lá ấy hóa vàng dần và miền sông như tranh phong cảnh của danh họa Levitan. Liệu có khi nào thuở sinh thời, Levitan đã lạc chân từ Maxcơva sang Minsk, rồi chàng họa sĩ ấy cũng đứng bên sông Svislach để dự tính cho những sắc màu đẹp trong bức Mùa thu vàng nổi tiếng ấy? Trước khi sang Minsk, một người bạn của tôi tên Vĩnh đã nói rằng, nơi cậu sắp tới là xứ sở của những sắc màu hội họa. Hôm nay đây, sự chứng thực tiệm thị đủ cho tôi thoả mãn ước nguyện để làm một cái bắt tay đồng ý muộn màng với Vĩnh ngày trở về. Sang mùa đông, tuyết rơi trắng trời, cây cối bên bờ trụi hết lá chỉ còn xương xẩu thản nhiên hóa thạch trước cái lạnh âm hai mươi độ, nước sông dần cô lại và đông cứng. Cả thành Minsk được bao phủ bởi một màu trắng đến vô nhiễm. Những bông tuyết xoè cánh mỏng nhẹ như tơ trời lả lả rệu xuống dệt vải áo cho mặt sông. Nhìn bông hoa tuyết ấy, chợt tôi nhớ về mùa hoa trứng cá muốt trắng hồi còn ở Huế. Có một buổi chiều mùa thu, T đã đến phòng trọ của tôi. Nàng lướt tay khe khẽ qua vòm hoa trứng cá và hỏi: -“Anh yêu màu trắng lắm phải không?” -“Ừ. Màu trắng tượng trưng cho lòng thủy chung. Như cô dâu ở nước Nhật trong đám cưới thường mặc một chiếc kimono màu trắng. Nếu người chồng mất đi, người vợ vẫn mặc một cái kimono trắng trong đám tang, có nghĩa là không đi thêm bước nữa”. -Nếu người yêu của em đi khỏi thành phố này, thì em sẽ hái thật nhiều hoa trứng cá màu trắng cài lên tóc!” Những buổi chiều như thế trôi qua nhẹ nhàng. Có vài bông hoa trứng cá rơi theo rất khẽ, hoa rơi mà cứ như sợ chạm phải một điều gì đó mong manh dễ vỡ. T đã ném rất nhiều hoa trắng vào cõi nhớ của riêng tôi. T là tê tái vậy! Bây chừ giá mà có T ở đây, chắc nàng sẽ thích thú với muôn vàn hoa tuyết trắng lắm. Bông tuyết sẽ hôn vào mái tóc mượt của T như chiếc kimono kéo trùm lên phủ kín cả chỏm đầu, để cho lời nguyện ước được đi tới tận cùng thánh thiện. Ôi, giá mà Huế và Minsk chỉ cách nhau… một gang, thì tôi sẽ bắc cầu dải yếm cho nàng sang hứng tuyết. Một lần đứng giữa bao la ám ảnh trắng ấy, ký ức đan xen thực tại khiến tôi không phân biệt được đâu là trời, đâu là đất, đâu là dòng sông nữa. Cứ như thể ấy là thuở vũ trụ mới kiến tạo và đức Thiên Chúa phẩy tay tung một vầng sáng trắng khai sinh khái niệm “ngày”. Bạn tôi reo lên: “Sông đã chết cóng!”. Không phải đâu, Svislach chỉ tạm thời chìm vào một cuộc ngủ đông như chú gấu Bắc cực xù lông trắng mà nheo mắt vậy thôi. Sông giả vờ mất tích để ta mải miết đi tìm và đến lúc không thể tìm thấy một ngạch nước nào thì ta biết rằng sự hiện hữu của nó giữa thành phố này đáng quý biết bao! Ta có thể đi dạo bộ trên tấm áo lông tuyết Svislach, nhưng cũng phải cẩn thận vì có chỗ mặt đá tuyết mỏng, rất dễ bị tụt chân xuống. Một vài bác trung niên giày áo kín đáo ra ngồi trên mặt sông. Họ đục lỗ tròn cỡ nắm tay và thả dây nối lưỡi câu xuống dưới để săn cá. Rồi tới một ngày, khi lưỡi câu của bác giật lên được chú cá tươi mởn, ấy là lúc mùa xuân đến. Băng đá trên sông tan dần, kẽ nước hé chào nắng mới. Vài đám băng mỏng dính thả mình trôi theo dòng chảy, được một quãng thì tất cả chúng tan ra và hòa mình vào nước. Svislach cái gì cũng chậm, chỉ có mùa xuân là đến sớm với nàng nhất. Dòng sông đáng yêu, dễ thương là vậy. Svislach ở bên cạnh tôi ba năm. Có đêm tôi nằm nghe sông thở, như một tiếng réo gọi về miền dĩ vãng xa xưa. Ở đó có một chàng trai đứng ngẩn ngơ hát: “Ước gì sông rộng một gang/ Bắc cầu dải yếm cho nàng sang chơi”. Và Svislach đã cho chàng toại nguyện. Bài, ảnh: HOÀNG CÔNG DANH