Nhớ về một thời oanh liệt
(QT) - Đã nhiều năm nay, không ai bảo ai, các thế hệ cán bộ, chiến sĩ Quân đoàn 14 nói chung, Sư đoàn 337 nói riêng thường tìm về Lạng Sơn để ôn lại một thời oanh liệt và để được trực tiếp tưởng nhớ, tri ân những đồng đội đã anh dũng hy sinh để bảo vệ biên cương Tổ quốc. Sau khi viếng nghĩa trang liệt sĩ thành phố, họ chia về các hướng đã từng gắn bó một thời máu lửa: Chi Ma, Lộc Bình, Đình Lập, Hữu Nghị Quan... Cán bộ, chiến sĩ Sư đoàn 337 bao giờ cũng tụ hội về địa danh lịch sử cầu Khánh Khê ...

Nhớ về một thời oanh liệt

(QT) - Đã nhiều năm nay, không ai bảo ai, các thế hệ cán bộ, chiến sĩ Quân đoàn 14 nói chung, Sư đoàn 337 nói riêng thường tìm về Lạng Sơn để ôn lại một thời oanh liệt và để được trực tiếp tưởng nhớ, tri ân những đồng đội đã anh dũng hy sinh để bảo vệ biên cương Tổ quốc. Sau khi viếng nghĩa trang liệt sĩ thành phố, họ chia về các hướng đã từng gắn bó một thời máu lửa: Chi Ma, Lộc Bình, Đình Lập, Hữu Nghị Quan... Cán bộ, chiến sĩ Sư đoàn 337 bao giờ cũng tụ hội về địa danh lịch sử cầu Khánh Khê (xã Bình Trung, huyện Cao Lộc), về bên Bia tưởng niệm liệt sĩ của Sư đoàn trên đồi Pa Pách. Một mõm đồi chưa đầy 1/4 km 2 mà chỉ trong ngày 2/3/1979, đã có 64 cán bộ, chiến sĩ Sư đoàn ngã xuống. Đứng trên điểm cao 649, hướng tầm mắt về những điểm cao 300, 400, 559... ai cũng bồi hồi nhớ về những ngày tháng 2/1979. Sau khi thê đội 1 vượt Hữu Nghị Quan theo Quốc lộ 1A tiến công về hướng Bắc thị xã Lạng Sơn, địch đưa Sư đoàn 301 thuộc Quân đoàn 54 cùng 3 trung đoàn địa phương (482, 483, 485) có pháo binh, hỏa tiễn và xe tăng yểm hộ, hình thành hướng vu hồi trên tuyến đường 1B hòng bao vây, chia cắt thị xã Lạng Sơn từ phía Nam.

Bộ đội hành quân bảo vệ biên giới phía Bắc- Ảnh: TL

Từ thành phố Vinh, Sư đoàn đã thực hiện “Dặm bước thần kỳ, phong cách Quang Trung”, cấp tốc hành quân lên biên giới. Được giao nhiệm vụ lập tuyến phòng ngự vững chắc từ Khánh Khê - Điềm He - Tu Đồn, trên đường 1B, kiên quyết ngăn chặn không cho địch từ Đồng Đăng theo đường 1B vượt qua cầu Khánh Khê... chiếm đèo Sài Hồ; đồng thời chặn địch từ Na Sầm vượt sông Kỳ Cùng vào Điềm He, chiếm Đồng Mỏ, Chi Lăng, thực hiện vu hồi phía sau để bao vây ta ở thị xã Lạng Sơn. Toàn Sư đoàn khẩn trương triển khai đội hình, tổ chức lực lượng. Rạng sáng ngày 28/2/1979, quân địch bắt đầu tiến công trên toàn chính diện phòng ngự của Sư đoàn từ Khánh Khê đến Điềm He, chúng áp dụng chiến thuật “đầu nhọn đuôi dài”, ỷ thế đông quân ồ ạt tấn công ta. Với quyết tâm “một tấc không đi, một ly không rời”, cán bộ, chiến sĩ Sư đoàn đã dũng cảm chiến đấu tiêu diệt, ngăn chặn, không cho chúng vượt qua tuyến phòng ngự. Chiến sự diễn ra vô cùng ác liệt trên tất cả các điểm cao 300, 400..., đặc biệt là ở điểm cao 559, khu vực cầu Khánh Khê, Pa Pách - điểm cao 649. Điểm cao 649 là nơi cao nhất trong hệ thống điểm cao, có giá trị chiến thuật quan trọng cho cả tiến công và phòng ngự. Vì vậy, nơi đây đã trở thành khu vực quyết chiến giữa ta và địch. Chỉ riêng ngày 28/2, địch đã tổ chức hàng chục đợt tiến công, nhưng đều bị các chiến sĩ Đại đội 9 đẩy lùi. Hàng trăm tên xâm lược phải bỏ mạng, buộc chúng phải rút xuống chân đồi đợi trời sáng. Ngày 1/3/1979, lực lượng của ta trên điểm cao bị tổn thất lớn, chỉ còn Trung đội 1, Đại đội 9, Tiểu đoàn 3, do Trung đội trưởng Trần Minh Lệ chỉ huy chốt giữ. Cuộc chiến đấu không cân sức giữa Trung đội 1 với 1 tiểu đoàn địch thường xuyên được bổ sung quân số, vũ khí sau mỗi đợt tiến công. Với tinh thần kiên cường, mưu trí, Trung đội của Trần Minh Lệ đã liên tiếp đẩy lùi 18 đợt tấn công lớn nhỏ, tiêu diệt được nhiều sinh lực của địch. Càng về chiều cuộc chiến đấu càng trở nên ác liệt. Lương thực, đạn dược đã cạn, việc tiếp tế từ phía sau lên khó khăn, nhiều chiến sĩ đã thương vong. Trung đội trưởng Trần Minh Lệ vừa tổ chức đưa thương binh, tử sĩ về phía sau, vừa trực tiếp chỉ huy phản kích giữ vững cao điểm thêm 6 giờ nữa. Anh đã chiến đấu đến hơi thở cuối cùng và đã anh dũng hy sinh. Tuy chiếm được cao điểm, nhưng quân địch phải trả một giá rất đắt và vô cùng khiếp sợ trước tinh thần chiến đấu gan dạ, dũng cảm của bộ đội ta. Chiến công của Trung đội đã được khắc họa trong lời tưởng niệm liệt sĩ ở Khánh Khê: “ Trần Minh Lệ dũng lược, ngoan cường; cùng Trung đội đập tan 18 đợt tiến công của địch, giữ chốt mấy ngày đêm... ” Còn nữa, còn nhiều nữa những người con kiên trung như chiến sĩ Nguyễn Đức Nga một mình cũng xuất kích; Tiểu đội trưởng Nguyễn Văn Tình bám trận địa đến cùng; Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 3 Nguyễn Xuân Hòa anh dũng, mưu trí luôn nêu cao tư tưởng tiến công tìm địch mà diệt; Tiểu đội trưởng Chu Minh Mỹ dũng cảm, sáng tạo dùng súng máy 12,7 ly đánh lui hàng chục đợt tấn công của địch, diệt 63 tên; y tá Nguyễn Xuân Sang vừa làm tròn nhiệm vụ cứu chữa thương binh vừa mưu trí đánh giặc, diệt 12 tên tại cao điểm 649... Chuẩn uý Lê Tất Thắng, Đại đội phó; Chuẩn uý Nguyễn Thái Hoà, Chính trị viên Đại đội 10, Tiểu đoàn 6 đã bình tĩnh động viên bộ đội chiến đấu đánh lui 16 đợt tiến công của một trung đoàn địch. Chiến sĩ thông tin Lê Đức Thân, 18 tuổi đời đã mưu trí dũng cảm vượt qua vòng vây lửa đạn để truyền lệnh liên lạc giữa đơn vị trên chốt với tiểu đoàn và trung đoàn, góp phần giữ vững trận địa... Chính trị viên đại đội Nguyễn Văn Cúc; Đại đội trưởng Nguyễn Kim Tượng, chiến sĩ Nguyễn Văn Phúc, Trần Quốc Thể anh dũng chiến đấu đến hơi thở cuối cùng... Tự hào biết bao Tiểu đội trưởng Vi Văn Thắng táo bạo, kiên gan; hết đạn, vẫn giương lê lao lên tả đột, hữu xung, khiến quân thù khiếp sợ. Sau nhiều ngày chiến đấu, toàn đơn vị hết đạn, anh đã động viên toàn tiểu đội giương lê đánh giáp lá cà với giặc, rồi cướp súng giặc tiếp tục chiến đấu, giữ vững trận địa đến hơi thở cuối cùng. Cảm phục ý chí kiên cường của Tiểu đội trưởng Vi Văn Thắng, nhân dân huyện Văn Lãng dùng tên của Liệt sĩ Vi Văn Thắng - người con dân tộc Tày quê hương Hữu Khánh, huyện Lộc Bình để đặt tên cho chính mảnh đất Cỏn Làng, xã Hồng Phong quê hương mình- Đồi Vi Văn Thắng. Có lẽ đây là minh chứng hùng hồn nhất, sinh động nhất tấm gương hy sinh của các liệt sĩ để lại cho muôn đời sau. Sau hàng trăm đợt tiến công, quân địch vẫn không thể vượt qua tuyến phòng ngự của Sư đoàn. Cầu Khánh Khê- Cánh cửa thép Lạng Sơn vẫn vững vàng giữa lòng đất mẹ. Ý đồ bao vây chia cắt của địch hoàn toàn thất bại. Để ngăn chặn ta truy kích, trước khi rút lui, quân địch đã đánh sập cầu Khánh Khê. Chiến tranh kết thúc, đất nước ngày càng đổi mới. Quốc lộ 1B đã được nâng cấp. Cầu Khánh Khê đã được xây mới bề thế, cách cầu cũ chưa đầy 200 m. Bia chiến thắng của Sư đoàn cũng được chuyển lên đồi Pa Pách (Điểm cao 649), nhường chỗ cho công trình thủy điện Thác Xăng. Nơi đây đã thực sự là chốn đi về của hương hồn các liệt sĩ; là địa chỉ hành hương truyền thống của các thế hệ cán bộ, chiến sĩ Sư đoàn 337; là nơi giữ gìn, giáo dục truyền thống yêu nước và cách mạng, khí phách kiên cường của dân tộc cho các thế hệ người Việt Nam ta. ĐỖ PHẤN ĐẤU