Từ một cuộc gặp gỡ đầy nghĩa tình !
(QT) - Thời gian cứ xuôi chảy về trước nhưng tình cảm con người có lúc cứ chảy ngược về sau. Trong những ngày rộn ràng kỷ niệm 40 năm ngày giải phóng Quảng Trị, khi các đoàn giáo viên miền Bắc đi B nhiệt tình về thăm lại chiến trường xưa, lòng những giáo viên đi B ở Quảng Trị xao xuyến, bồi hồi nhớ về ký ức một thời không thể quên. Là một người trong số họ, tôi có chung tâm trạng tha thiết đó. Tất cả chúng tôi rất trân trọng và cảm ơn Hội Cựu giáo chức khi tổ chức xã hội này đã có ý tưởng tốt đẹp và vượt qua nhiều khó khăn để chu toàn cho cuộc gặp gỡ với quy mô 120 người này. Tôi đã ở tuổi “nhớ nhớ - quên quên” nhưng nếu không nhầm thì tôi nhớ là đã có 11 đợt giáo viên miền Bắc chi viện cho Quảng Trị. Trước ngày Quảng Trị được giải phóng (1/5/1972) đã có 5 đợt. Đợt 1: năm 1959 -1960. Đợt 2 : 1964- 1965. Đợt 3 : 1968 -1969. Đợt 4 : 1970 -1971. Đợt 5 : đầu năm 1972. Tổng số cả 5 đợt khoảng 120 người nhưng gần 1/3 trong số họ đã anh dũng hy sinh cho sự nghiệp to lớn của dân tộc, của ngành trên đất Quảng Trị thân yêu. Đây là những người phải chịu gian khổ hy sinh nhiều nhất trong số những giáo viên đi B. Nếu nói về công trạng thì họ chính là những người “khai sơn phá thạch” có công đầu trong việc đặt nền móng cho giáo dục Quảng Trị. Rất đáng mừng là trong số họ có một số đã trở thành cán bộ chủ chốt của tỉnh như anh: Nguyễn Kham, Lê Hải Hà, Dương Tú Anh...
 |
Lãnh đạo TƯ Hội Cựu giáo chức Việt Nam và các đồng chí lãnh đạo tỉnh chụp ảnh lưu niệm cùng BCH Hội Cựu giáo chức tỉnh Quảng Trị khóa I. -Ảnh: T.L |
Từ sau khi Quảng Trị được giải phóng, việc phát triển sự nghiệp giáo dục được đặt ra như một yêu cầu bức thiết nhằm giải quyết 3 mục tiêu cụ thể: - Bổ túc văn hoá ngay cho số cán bộ trưởng thành trong kháng chiến; - Đồng loạt mở các lớp xoá mù chữ để nhân dân kịp tiếp cận với các chủ trương, chính sách mới của cách mạng; - Phát triển rộng khắp hệ thống giáo dục phổ thông để đào tạo lâu dài. Các trường phổ thông đã được hình thành như một biểu trưng cho sức sống mới. Năm 1973 đã có 72 trường Tiểu học; 8 trường Phổ thông cơ sở và trường Phổ thông trung học Đông Hà (Trường Trung học cách mạng duy nhất lúc ấy của toàn miền Nam) Yêu cầu tiên quyết là phải có đội ngũ giáo viên. Ty giáo dục Vĩnh Linh đã giúp đỡ để đào tạo cấp tốc (được gọi là sư phạm 3+7. Một cách nói vui vì hệ này ở miền Bắc là 7+3). Nhưng chỉ đào tạo được 120 người vì cạn nguồn tuyển sinh dù đã lấy đến người có trình độ từ lớp 3 trở lên. Trước thực tế đó, Bộ giáo dục đã tổ chức chi viện lớn cho tỉnh. Đã có hơn 700 giáo viên của 13 tỉnh, thành phố chi viện cho Quảng Trị. Nếu kể cả đợt ít người (có tính bổ sung) thì đã có 6 đợt. Điểm đón tiếp được đặt tại trường Gio Lễ. Đặc biệt sau chuyến thăm của Giám đốc Sở giáo dục Hà Nội Dương Ngà đã có hơn 100 giáo viên Hà Nội tình nguyện vào Quảng Trị. Số giáo viên vào sau ngày 1/5/1972 tuy không bị nguy hiểm về tính mạng như 5 đợt trước nhưng vất vả, gian khổ thì rất nhiều. Trước hết là phải vượt qua những lo lắng cho “hậu phương” (bản thân tôi với người vợ khá yếu; 1 cháu 3 tuổi, 1 cháu chưa đầy tháng, trường lại đi sơ tán nên rất hiểu mối âu lo này). Anh chị em phải tìm từng cọc sắt, viên táp lô, tấm tồn để làm phòng học, làm nhà ở trong khi bữa ăn thì quá đạm bạc. Ngay tại Ty, có tuần không có rau xanh chỉ ăn gốc chuối và thân cây đu đủ. Đặc biệt, số công tác ở miền núi phải chịu sốt rét thường xuyên, số ở ven biển thì bị bọ chét cắn khắp người. Đến năm 1978, anh chị em lần lượt được ra Bắc. Gian khó của năm tháng đi B đã làm một số người rất khó khăn trong cuộc sống tiếp nối. Tại Hà Nội, Thái Bình, Thanh Hoá, Nghệ -Tĩnh... đã có thầy phải chịu phơi nhiễm chất độc da cam, đã có những cô vì lỡ thời không xây dựng được gia đình riêng và đã có những gia đình có đến 2-3 cháu khuyết tật. Dù vậy, trong lòng họ tấm lòng đối với Quảng Trị vẫn thật sâu nặng. Sau 40 năm, mong muốn có được một cuộc hội ngộ để sống lại với ký ức đẹp nhất của tuổi thanh xuân của giáo viên đi B thật cháy bỏng. Tại Hà Nội, 72 giáo viên đã tự nguyện đóng góp 2,5 triệu đồng/người từ lương hưu ít ỏi của mình để được về lại miền đất gắn bó xưa. Một cô giáo chỉ nặng 28 kg (rất gầy yếu) yêu cầu con trai nghỉ việc đưa mẹ về thăm lại trường xưa là một minh chứng. Những giáo viên đã đi B đang ở tại Quảng Trị (khoảng 150 người) cũng có chung tâm trạng đó. Nhưng vẫn phải có ai đó đứng ra tổ chức. Vì vậy, khi Hội Cựu giáo chức vượt khó để tổ chức cuộc gặp này vừa là đáp ứng nguyện vọng tha thiết của mọi người, vừa thể hiện sâu sắc đạo lý “Ăn quả nhớ người trồng cây” dành cho những người đã trực tiếp xây dựng nền móng giáo dục cách mạng hôm nay. Trong cuộc hội ngộ đó, nguyện vọng của nhiều người muốn xin tỉnh cho thành lập Ban liên lạc những giáo viên đi B (có thể cả đi C, K). Nguyện vọng đó thật chính đáng nếu được đáp ứng thì thật tốt đẹp. Sau 40 năm, tay nắm tay trong ngày hội ngộ, ai cũng cảm kích và trân trọng về việc làm tốt đẹp này của Hội Cựu giáo chức. Mở đầu cuộc hội ngộ là phút mặc niệm trang nghiêm và thành kính dành cho những đồng nghiệp đã hy sinh. Trong số họ có người chưa từng biết đến hạnh phúc gia đình, nhưng cũng có người để lại 5 con với người vợ đầy khó khăn. Vì nghĩa lớn của dân tộc, vì sự nghiệp của ngành và cũng vì mảnh đất Quảng Trị họ đã hy sinh nên họ là người có công lớn nhất mà tất cả chúng ta thật lòng kính trọng. Chúng tôi may mắn là người được sống đến hôm nay. Tôi thường tự hỏi mình “Ký ức đi B là ký ức của những ngày đầy gian khó, tại sao lại có sức sống mạnh mẽ và lâu dài đến như vậy?” Và tôi tự lý giải chí ít là 3 lý do: Một là: Nhớ về thời đi B là nhớ về một thời rất đặc biệt của dân tộc. Một thời mà cả dân tộc không phân biệt già trẻ, gái trai cùng sống trong một tâm trạng “Nước còn giặc ta còn đi đánh giặc. Chiến trường xa vẫy gọi bước quân hành”. Khi anh hùng Lê Mã Lương nói: “Hạnh phúc nhất là ở trận tuyến chống quân thù” thì đó cũng là tâm trạng của hàng triệu người trong đó có các giáo viên đi B. Nhớ tới hình ảnh cậu bé Trần Quốc Toản bóp nát quả cam cũng như các bô lão đồng thanh “Quyết đánh” ở Hội nghị Diên Hồng, ta hiểu rằng: Cứ mỗi khi đất nước bị thách thức bởi ngoại xâm thì cả dân tộc cố kết lại trong một lời thề sinh tử. Một thời “Quảng Trị vì cả nước” và “Cả nước vì Quảng Trị”. Thật có lý khi Chế Lan Viên viết: “Những ngày tôi sống đây là những ngày đẹp hơn tất cả/Dù mai sau đời muôn vạn lần hơn”. Những giáo viên đi B đã sống với tâm trạng đó và thật háo hức trên đường ra tiền tuyến ngày ấy... Hai là: Ký ức một thời đi B là ký ức về tình người. Tình cảm thì bao giờ và ở đâu cũng quý nhưng trong gian khó thì càng thêm đậm đà và ý nghĩa. Trong chúng ta, có ai không rưng rưng khi nhớ về một thời nhường cơm sẻ áo cho nhau trong thiếu thốn mang vác cho nhau trên đường hành quân, hợp sức cùng nhau trong nắng rát mưa dầm để dựng trường, mở lớp và cả những đêm khuya an ủi, động viên nhau vượt qua thách thức... Tình người sâu đậm đó đã là sức mạnh giúp mỗi chúng ta biến những gì tưởng như “không thể” trở thành “có thể” và giờ đây là những ký ức vàng chốt chặt trong lòng mỗi người. Gian khó là thế nhưng ngọt ngào cũng là thế ! Ba là: Nhớ về thời đi B là nhớ về một thời mà chúng ta đã vượt lên thách thức tự chiến thắng bản thân mình để sống và cống hiến. Thời chiến tranh, lại ở mảnh đất tan nát và đau thương như Quảng Trị, khó khăn với người làm giáo dục thật nhiều khi bản thân mình khó khăn, bối cảnh khách quan cũng như bản thân công việc cũng khó khăn thì thách thức quả là không nhỏ. Muốn hoàn thành nhiệm vụ yêu cầu đầu tiên phải là chiến thắng bản thân mình và vượt qua những khó khăn của khách quan. Vì vậy, nhớ về một thời đi B cũng chính là nhớ về một thời vượt lên chính mình, vượt lên hoàn cảnh vậy. Hạnh phúc của người giáo viên luôn gắn với sự trưởng thành của người học. Một giáo viên Hà Nội đi B năm 1972 tâm sự : Không chỉ nhìn những người học đã thành đạt có vị trí cao trong xã hội mà nhìn tất cả mọi người dù ở trong vị thế nào chúng ta cũng vui và tự hào vì đã có một thời gắn bó, sẻ chia, giúp đỡ, hướng dẫn họ trong buổi đầu đời đầy gian khó. Lỗ Tấn đã tổng kết đầy nhân bản rằng: “Người ta chỉ thực sự sống khi sống được trong lòng người khác”. Chính với sự nỗ lực to lớn và kiên nhẫn của giáo viên đi B mà họ đã “sống được” và sống lâu dài trong lòng bao học sinh, phụ huynh và nhân dân. Rõ ràng, những giáo viên đi B đã sống thật “xứng đáng”. Nếu cần nói thêm thì đó là một thời sống đẹp. Bởi vì nguyên lý của cái đẹp chân chính là không gắn với các mục tiêu vụ lợi. Do đó, đây là những ngày tháng thật đẹp vậy. Ai cũng sống trong 3 phạm trù của thời gian: Quá khứ- Hiện tại – Tương lai. Lời chúng tôi muốn gửi đến các đồng nghiệp đi B là: Hãy trân trọng giữ gìn quá khứ tốt đẹp một thời đi B để sống phong phú hơn với hiện tại và thêm một động lực để thanh thản nghĩ về tương lai. Lời chúc cho các bạn đương chức hôm nay: Giáo viên đi B là những người làm giáo dục Quảng Trị ở thời gian khó, rất vui mừng và tự hào về sự trưởng thành vượt bậc của Quảng Trị hôm nay. Cảm ơn các bạn đã biến không ít ước mơ ngày hôm qua của chúng tôi thành hiện thực hôm nay. Lịch sử là một dòng chảy không ngừng mà ở mỗi thời điểm khác nhau có những yêu cầu khác nhau. Thời chúng tôi là khi đất nước còn đầy bóng giặc, điều kiện vô cùng ngặt nghèo, sự nghiệp giáo dục đang ở buổi sơ khai nhưng chúng tôi đã hoàn thành nghĩa vụ công dân, nghĩa vụ đối với ngành. Thời các bạn đã có rất nhiều điều đổi khác nhưng tôi vẫn tin rằng có một điểm chung của hai thời kỳ. Còn nhớ trong buổi đầu cải tổ đầy rắc rối ở Nga, một số người hô hào xoá bỏ quá khứ thì ông Pu-tin đã nói rất đúng rằng: “Ai quay lưng lại với quá khứ thì không có trái tim; nhưng ai khư khư muốn giữ mãi mô hình quá khứ là người không có đầu óc”. Đúng là có những mô hình, những cách thức đã từng đúng nhưng sẽ sai nếu lặp lại nguyên xi khi bối cảnh đã hoàn toàn đổi khác. Nhưng có những giá trị chung như một sợi chỉ đỏ xuyên suốt mọi thời kỳ thì vẫn tồn tại như một giá trị vĩnh hằng. Đối với những người làm giáo dục, phải chăng lòng yêu Tổ quốc, tình yêu nghề nghiệp, trách nhiệm với người học cùng với ý chí quyết tâm và sức sáng tạo trong thực thi công vụ là điểm chung cao đẹp của mọi thời kỳ. Từ điểm chung tốt đẹp đó, xin chúc các bạn đương chức hôm nay hoàn thành xuất sắc “thiên chức” vẻ vang của mình. Để kết thúc, xin trở lại với các đồng nghiệp thân yêu đã đi B cùng tôi. Có một chuyện từ năm 1973 mà tôi không sao quên được. Nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường, nguyên là thầy giáo và lúc đó là Trưởng Ty Văn hoá Quảng Trị. Anh nói với tôi: “Từ tối mai mình đăng ký dạy lớp xoá mù ở Triệu Độ”. Tôi hỏi lý do, anh trả lời: “Trên chuyến đò sáng nay mình gặp một bà cụ đã ngoài 60 tuổi đi bán hai con gà. Bà nói, bán gà để mua kính lão về học xoá mù chữ”. Rồi anh nói tiếp: “Mình làm công tác văn hoá, trước cái tâm thức văn hoá quá đẹp ấy của người dân, mình thấy cần phải làm một điều gì đó thật thiết thực để đáp lại”. Quả thật từ sau ngày đó, đêm đêm anh đạp xe về dạy xoá mù chữ thật. Từ câu chuyện ấy, tôi nghĩ rằng, không nhất thiết đời ai cũng phải lấp lánh ánh hào quang, nhưng trong đời sống ai cũng phải và hoàn toàn có thể sống hữu ích. Tôi nghĩ rằng những giáo viên đi B đã thật sự sống hữu ích cho đất nước, cho ngành, cho Quảng Trị và cả cho chính mình. TRƯƠNG SỸ TIẾN