(QT) - Con tàu HQ 561 chở đoàn công tác Bộ Thông tin và Truyền thông ra thăm và làm việc tại quần đảo Trường Sa bắt đầu rời quân cảng Cam Ranh, băng băng lướt sóng ra khơi. Bên sắc áo lính hải quân quen dầu dãi với con tàu, với sóng biển là những sắc áo “dân sự” của đoàn công tác với thành phần đến từ nhiều ban, ngành: Bộ Thông tin và Truyền thông, Ban Tuyên giáo Trung ương, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, Sở Thông tin và Truyền thông các tỉnh có biển và Đoàn ca múa nhạc dân tộc tỉnh Hậu Giang..., trong đó phần lớn là những người đến với Trường Sa lần đầu. Ngắm từng chùm sóng trắng nở tung lấp lánh trong nắng quanh thân tàu, tôi bồi hồi nghĩ tới hải trình vươn ra Hoàng Sa, Trường Sa đầy vất vả, gian lao nhưng cũng đầy sự khám phá, mở đường của cha ông thuở trước, từ thế kỷ XVII trở đi. Một nỗi bâng khuâng, một niềm cảm khái chợt dâng trào, khi cảm nhận rằng, con tàu HQ 561 hiện đại được định vị, được dẫn dắt bởi hải trình cha ông đã mở bằng mồ hôi, nước mắt và máu từ những thế kỷ trước. Hải trình này dưới thời các chúa Nguyễn còn in dấu rõ nét trên những trang “Phủ biên tạp lục” của nhà bác học Lê Quý Đôn. Dưới thờ i các chúa Nguyễn, đội Hoàng Sa được thành lập để vươn ra Hoàng Sa, Trường Sa.
![]() |
Thứ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Nguyễn Thành Hưng tặng tư liệu khẳng định Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam cho quân dân đảo Nam Yết - Ảnh: VĂN DŨNG |
Ở đảo chìm Cô Lin cũng tương tự, rau không nhiều nhưng cũng đủ “tươi đời” qua lời kể của Thượng úy Nguyễn Văn Ba, Chính trị viên đảo Cô Lin: “Rau xanh trên đảo nấu canh ăn được 3 bữa mỗi ngày, còn luộc ăn thì thi thoảng”. Ở các đảo nổi, có điều kiện về đất đai, chăm bón, vườn rau tăng gia của chiến sĩ xanh tốt hơn, phong phú hơn với nhiều loại như rau cải, rau muống, rau dền... Tản bộ trên đảo Sơn Ca, tôi như được sống với khung cảnh quen thuộc của làng quê Việt Nam, khi tần ngần đứng bên giàn bầu đã đơm quả ngọt. Thân bầu vươn ra cả ngoài giàn, ngoài hàng rào như thể “ngóng cổ” sang chuồng nuôi vịt, gà cạnh đó để chia sẻ cùng nhau nỗi xôn xao về sự cựa mình lớn dậy từng ngày. Nước uống trên đảo dùng nước mưa, khi khô hạn phải chở nước từ đất liền ra. Để tiết kiệm nước ngọt, có những nơi, chiến sĩ ta phải giặt quần áo bằng nước mặn, biết là giặt như thế, quần áo sẽ mau hư nhưng đành vậy. Nước ngọt ở đảo quý là thế nhưng khi đón khách từ đất liền ra thăm, các cán bộ, chiến sĩ trên đảo vẫn “hào phóng” đặt một dãy thau nước ngọt cho khách rửa tay, rửa mặt. Điều này làm ai cũng xúc động đến nghẹn lòng. Khác với đảo chìm, đảo nổi, cuộc sống của những người lính ở nhà dàn DK1/17 (thuộc Cụm kinh tế - khoa học - dịch vụ trên thềm lục địa phía Đông Nam) là sống trên... trời. Nhà dàn được dựng trên những trụ sắt, một đằng cắm sâu vào lòng biển, một đằng vươn cao lên trời xanh, đứng ngạo nghễ trước thử thách của biển cả, bão táp. Bám vào từng bậc, từng bậc chiếc thang sắt, chúng tôi lần lượt leo lên với nhà dàn. Leo lên, leo lên để thấy thấm thía, để cảm nhận đủ đầy về hai tiếng “thiêng liêng” của chủ quyền biển đảo Tổ quốc. Leo lên, leo lên để thấy lòng mình dâng đầy những niềm hướng thượng. Leo lên, leo lên để nuôi dưỡng chí khí. Giữa trời nước mênh mông, trên nhà dàn vẫn trồng được nhiều loại rau xanh lên mơn mởn, vẫn nuôi được những con heo béo mộng. Trên mặt biển dưới chân nhà dàn nổi lên từng đàn cá lấp lánh trong nắng mai, tung tăng với sóng biển, những đàn cá đã quen quần tụ với nhà dàn. Cuộc sống của những người lính giữa trùng dương xa xôi dẫu còn bao gian lao, vất vả, thiếu thốn nhưng các anh vẫn vượt lên tất cả để giữ vững biển trời Tổ quốc. Vì tình yêu Tổ quốc, các anh đã xếp lại mối riêng tư. Anh Chu Văn Hùng, Chính trị viên nhà dàn DK1/17 là người chiến sĩ trẻ, chưa lấy vợ nhưng rất thấu tỏ và chia sẻ với những niềm riêng của lính. Anh tâm sự: “Có những trường hợp anh em gặp lúc vợ yếu, con đau, người thân từ trần, người yêu đi lấy chồng, mình đều động viên anh em vượt qua khó khăn. Mình còn xin số điện thoại người yêu của chiến sĩ để động viên”. Tình yêu Tổ quốc đã thắp sáng trong các anh niềm lạc quan, yêu đời cháy bỏng. Tôi đã thấy trên giường nằm của một chiến sĩ ở đảo Đá Tây có một cuốn sách “gối đầu giường”, đó là tập ca khúc “Miền xa thẳm” của Đức Trịnh, do Nhà xuất bản Âm nhạc xuất bản năm 2014. Lần giở tập ca khúc, các khúc thức, giai điệu nồng nàn, thiết tha về biển đảo quê hương trong đó như “Huyền tích Trường Sa”, “Ánh mắt Song Tử Tây”… cứ ngân vọng trong tôi. Lính đảo thích hát và hát với cả hồn mình. Và vì thế, tiếng hát của các ca sĩ Đoàn ca múa nhạc dân tộc tỉnh Hậu Giang, tiếng hát của các thành viên trong đoàn, của các chiến sĩ hải quân đã vang vọng trên boong tàu HQ 561, trên đảo Sơn Ca, Nam Yết, Cô Lin, Trường Sa, nhà dàn… ngân lên những giai điệu bỏng cháy vì biển đảo Tổ quốc như “Nơi đảo xa”, “Huyền tích Trường Sa”, “Tổ quốc gọi tên mình”... Những người lính giữ đảo, giữ biển trời Tổ quốc cũng chính là những người góp phần xây dựng, phát triển kinh tế, trong đó có kinh tế biển đảo. Trò chuyện với anh Nguyễn Hồng Vân, Trạm trưởng Trạm ra đa 57, Quân chủng Phòng không Không quân ở đảo Nam Yết, anh nhắc đến “vùng thông báo bay” (Flight Information Region - viết tắt là FIR), tức là một vùng trời có giới hạn xác định trong đó có cung cấp dịch vụ thông báo bay và dịch vụ báo động. Anh cho biết, có những FIR nay đã thuộc quyền quản lý của Việt Nam và máy bay các nước bay quá cảnh qua FIR Việt Nam phải trả tiền cho Việt Nam. Đến thăm đảo chìm Đá Tây, đoàn đã được nghe anh Đặng Văn Bình ở Hải đoàn 129 giới thiệu về mô hình nuôi cá lồng bè ở đảo này. Việc nuôi cá lồng bè thực hiện ở đây đã được 8 năm, theo công nghệ nuôi của Na Uy. Cá chim trắng là loại được nuôi thích nghi tốt nhất. Cũng như những loài cá biển, những loài cây đảo như cây phong ba, cây bão táp, để trụ vững nơi đầu sóng ngọn gió, những người lính đảo vừa biết thích nghi với hoàn cảnh sống đặc thù ở đảo, vừa tôi luyện bản lĩnh dạn dày qua thử thách. Điều đặc biệt là các anh được tiếp nhận cội nguồn sức mạnh từ truyền thống lịch sử của cha ông hàng nghìn năm giữ nước và dựng nước. Trong phòng truyền thống của Trung tâm Văn hóa đảo Nam Yết còn trưng bày tư liệu về “những chiến thắng tiêu biểu của quân thủy Việt Nam trong lịch sử chống giặc ngoại xâm”, cạnh đó là hình ảnh những cọc nhọn Bạch Đằng của đội quân Trần Hưng Đạo vút lên trong sóng nước, đánh tan quân Nguyên Mông xâm lược năm 1288. Nhằm cùng quân dân trên các đảo vun bồi, phát huy sức mạnh từ cội nguồn, Bộ Thông tin và Truyền thông đã tổ chức lễ trao tặng bản đồ và tư liệu “Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam - Những bằng chứng lịch sử” tại đảo Nam Yết, lễ khai mạc triển lãm bản đồ và tư liệu về chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam tại đảo Trường Sa. Nguồn bản đồ, tư liệu được triển lãm khá phong phú, dựng kín không gian xung quanh bia chủ quyền đảo Trường Sa như ôm lấy tấm bia thiêng liêng đứng hiên ngang, vững chãi trước sóng gió, bão táp. Nguồn bản đồ, tư liệu này được sưu tầm, tập hợp từ nhiều nguồn, trong đó có cả nguồn của Trung Hoa chứng minh rõ ràng Hoàng Sa, Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam. (Còn nữa)
NGUYỄN HOÀN ---------------------------- (1) Lê Quý Đôn toàn tập, Tập I, Phủ biên tạp lục, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1977, tr. 119, 120. (2) Lê Quý Đôn toàn tập, sđd, tr. 120.