Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân tộc, miền núi
(QT) - Đồng bào dân tộc thiểu số tỉnh Quảng Trị có hơn 75.000 người, gồm hai dân tộc chủ yếu là Vân Kiều và Pa Kô, sinh sống trên địa bàn miền núi chiếm 68% tổng diện tích tự nhiên của tỉnh. Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng. thời gian qua, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân tỉnh Quảng Trị luôn chú trọng việc triển khai đầu tư cho vùng đồng bào dân tộc nói riêng và miền núi nói chung. Cùng với những thành tựu to lớn và có ý nghĩa quan trọng trong quá trình thực hiện nghị quyết đại hội đảng các ...

Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân tộc, miền núi

(QT) - Đồng bào dân tộc thiểu số tỉnh Quảng Trị có hơn 75.000 người, gồm hai dân tộc chủ yếu là Vân Kiều và Pa Kô, sinh sống trên địa bàn miền núi chiếm 68% tổng diện tích tự nhiên của tỉnh. Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng. thời gian qua, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân tỉnh Quảng Trị luôn chú trọng việc triển khai đầu tư cho vùng đồng bào dân tộc nói riêng và miền núi nói chung. Cùng với những thành tựu to lớn và có ý nghĩa quan trọng trong quá trình thực hiện nghị quyết đại hội đảng các cấp và các nghị quyết chuyên đề của Tỉnh ủy về phát triển kinh tế - xã hội miền Tây, Chương trình hành động số 37- CTHĐ/TU của Tỉnh ủy thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy BCH Trung ương Đảng khóa IX về công tác dân tộc, tình hình miền núi và các vùng đồng bào dân tộc thiểu số đã có những bước chuyển biến quan trọng.

Khen thưởng các cá nhân tiêu biểu tại Đại hội các dân tộc thiểu số lần thứ nhất - 2009 - Ảnh: TRÀ THIẾT

Theo báo cáo kết quả rà soát chính sách dân tộc giai đoạn 2006-2014 của Ủy ban Dân tộc, hiện nay có 130 chính sách dân tộc được thể hiện qua 177 văn bản tại 33 nghị định, nghị quyết của Chính phủ và 140 quyết định của Thủ tướng Chính phủ. Bên cạnh các chính sách dân tộc của trung ương triển khai trên địa bàn, tỉnh Quảng Trị đã chủ động thể chế hóa quan điểm, đường lối của Đảng và Nhà nước bằng việc ban hành các chủ trương, chính sách riêng phù hợp với địa bàn như: Nghị quyết 06/2008/NQ-HĐND của HĐND tỉnh ban hành về chính sách và kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ người dân tộc thiểu số từ 2008-2010; Nghị quyết số 06/2012/NQ-HĐND về giảm nghèo bền vững đối với các xã, thôn, bản, vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn trên địa bàn tỉnh Quảng Trị có tỉ lệ hộ nghèo cao giai đoạn 2012-2015; UBND tỉnh ban hành Đề án 3710/UBND về một số chính sách hỗ trợ nhà ở, đất sản xuất, đất ở, nước sinh hoạt và giải quyết việc làm cho đồng bào dân tộc thiểu số nghèo… Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể cùng các cấp, các ngành đã đẩy mạnh công tác phối hợp tổ chức triển khai các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; tuyên truyền sâu rộng Nghị quyết 24-NQ/TW về công tác dân tộc; thực hiện có hiệu quả các cuộc vận động, phong trào thi đua, tập hợp, huy động sức mạnh tổng hợp của các tầng lớp nhân dân, các thành phần kinh tế, các tổ chức, cá nhân trong và ngoài tỉnh xây dựng nhà ở cho hộ nghèo, cứu trợ xã hội, góp phần đảm bảo an sinh xã hội cho đồng bào dân tộc thiểu số. Với sự nỗ lực của cả hệ thống chính trị thực hiện có hiệu quả chính sách dân tộc, kinh tế - xã hội vùng dân tộc và miền núi có những chuyển biến tích cực, thu nhập bình quân đầu người vùng đồng bào dân tộc không ngừng gia tăng. Cơ cấu cây trồng vật nuôi chuyển đổi theo lợi thế của từng tiểu vùng, hình thành các vùng chuyên canh có diện tích lớn như: vùng nguyên liệu tinh bột sắn, cây lâm nghiệp, cà phê, cao su, hồ tiêu…, giúp nhân dân ổn định sản xuất, định canh định cư, xóa đói giảm nghèo. Việc triển khai nhiều chính sách, chương trình, dự án đầu tư đã làm cho kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội và đời sống nhân dân vùng đồng bào dân tộc được cải thiện rõ rệt, công tác xóa đói giảm nghèo đạt những kết quả to lớn, mặt bằng dân trí nâng lên, đời sống văn hóa tinh thần phát triển phong phú, văn hóa truyền thống của các dân tộc được giữ gìn và phát huy. Qua 2 năm thực hiện Nghị quyết 06/2012/NQ-HĐND của HĐND tỉnh về giảm nghèo nhanh và bền vững đối với các xã, thôn, bản có tỉ lệ hộ nghèo cao, đến nay tỉ lệ hộ nghèo bình quân giảm 9,53%, trong đó tỉ lệ hộ nghèo bình quân 9 xã đặc biệt khó khăn giảm 10,16%; tỉ lệ xã đạt chuẩn phổ cập THCS đạt 100%, tỉ lệ học sinh trong độ tuổi đến trường đạt 83%... Đến cuối năm 2013, tỉ lệ thôn, bản có điện chiếm 73,12%, tỉ lệ hộ dùng điện sinh hoạt đạt 90%; số xã có trạm y tế bán kiên cố 10/47 xã, số xã có trạm y tế đạt chuẩn quốc gia 8/47 xã; tỉ lệ hộ sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh 80%; tỉ lệ thôn, bản có nhà sinh hoạt cộng đồng chiếm 51,3%. Tổ chức đảng và hệ thống chính trị cơ sở ở miền núi và vùng đồng bào dân tộc thường xuyên được củng cố; công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ là người dân tộc thiểu số được quan tâm; an ninh quốc phòng miền núi và an ninh biên giới được giữ vững. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, vùng đồng bào dân tộc và miền núi vẫn còn nhiều khó khăn, hạn chế. Đây là vùng có tỉ lệ hộ nghèo cao, giảm nghèo chưa bền vững; cơ sở hạ tầng còn yếu kém và thiếu đồng bộ; chất lượng giáo dục và nguồn nhân lực thấp; một bộ phận đồng bào dân tộc còn du canh du cư, chặt phá rừng làm rẫy… đã tác động đến quá trình phát triển kinh tế - xã hội của vùng. Ngoài nguồn lực đầu tư của trung ương, nguồn lực của tỉnh chưa đủ khả năng để tạo sức bật thúc đẩy nhanh quá trình phát triển kinh tế- xã hội của vùng. Vấn đề dân tộc và đoàn kết các dân tộc là vấn đề chiến lược cơ bản, lâu dài, đồng thời cũng là vấn đề cấp bách hiện nay của cách mạng Việt Nam. Ngay từ khi mới ra đời và trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn xác định vấn đề dân tộc, công tác dân tộc và đoàn kết các dân tộc có vị trí chiến lược quan trọng. Để thực hiện tốt công tác dân tộc và chính sách dân tộc trong thời gian tới, các cấp ủy đảng cần tăng cường chỉ đạo, quán triệt thực hiện Nghị quyết TƯ 7 khóa IX và Kết luận số 57-KL/TW ngày 3/1/2009 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết TƯ 7 khóa IX gắn với việc thực hiện Nghị quyết số 25-NQ/TW của BCH Trung ương Đảng khóa XI “Về tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới”. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục nhằm nâng cao nhận thức trong toàn thể hệ thống chính trị, các cấp, các ngành và toàn xã hội về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, về công tác dân tộc, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước. Nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng và hệ thống chính trị trong việc vận động quần chúng nhân dân, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số thực hiện chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc, giúp nhau cùng tiến bộ, hăng hái thi đua phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững QPAN. Tập trung đầu tư nguồn lực cho phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội, các chương trình, dự án hỗ trợ sản xuất, phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo, đào tạo nghề, giải quyết việc làm để mọi người dân, mọi vùng miền có điều kiện phát triển kinh tế, nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống. Tăng cường công tác dân vận chính quyền, nâng cao trách nhiêm, hiệu quả công tác dân vận của chính quyền, cơ quan nhà nước các cấp; triển khai thực hiện hiệu quả pháp lệnh và các nghị định của Chính phủ về thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở. Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động đoàn viên, hội viên và các tầng lớp nhân dân tham gia vào các phong trào thi đua yêu nước, chấp hành tốt các chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước; nâng cao hiệu quả kết nghĩa giữa các ngành, đoàn thể, đơn vị lực lượng vũ trang với các xã, thôn, bản vùng đồng bào dân tộc thiểu số; đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động, hướng hoạt động về cơ sở, giúp đỡ nhân dân trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển sản xuất ổn định đời sống, giúp nhau xóa đói giảm nghèo. Tiếp tục kiện toàn tổ chức, bộ máy, cán bộ làm công tác dân tộc, công tác dân vận, Mặt trận và các đoàn thể nhân dân đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ công tác dân vận trong tình hình mới. Quan tâm công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cơ sở, nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan chuyên trách làm công tác dân tộc, góp phần xây dựng miền núi và vùng đồng bào dân tộc ngày càng phát triển. THANH HẢI