Cao Hạnh nhưng vóc dáng không cao, hay đau vặt. Đã thế anh lại thượng vào người những màu áo vàng nhạt, tím tím, nhiều lúc đang khỏe mà cứ tưởng vừa ốm dậy. Ấy vậy mà mỗi lúc đàm đạo về văn chương anh nói rất nhiều, lấn sâu thời lượng của người khác. Anh nói về những tác phẩm của anh đã in đây đó, những ý tưởng vừa mới hình thành, cái vui sướng của sự thành công, cái buồn đau của nghề cầm bút. Anh nói về tác phẩm của các bạn viết, sự thành công của một ai đó mà hớn hở hơn bắt được của. Thì ra trời sinh ra Hạnh gắn với nghề văn. Dẫu có làm phong trào, lăn lộn với miếng sống, cũng lội trên chữ nghĩa, cày trên đất văn. Nghề cầm bút chỉ cần trí tuệ, cần tâm và tình. Vậy là trời có lý cho Hạnh vai u thịt bắp chỉ thừa. Năm 2007, Cao Hạnh có "Người đàn bà lội sương" được chọn vào "Truyện ngắn hay" do Nhà xuất bản Hội Nhà văn phát hành tháng 1-2008, gồm 29 truyện của 29 tác giả trong toàn quốc. Như vậy thêm "Người đàn bà lội sương", Hạnh có 4 tác phẩm lọt vào những tuyển tập danh giá như vậy. Một lần nữa đôi mắt của Hạnh hướng về những người đàn bà. Anh nói: - Tôi cứ viết tình cờ mà hóa ra thế. Người đàn bà khổ lắm!Vậy là Hạnh viết không tình cờ, cái khổ của họ thôi thúc Hạnh viết. Trong "Người đàn bà lội sương", Nguyệt đã để lại cái quý nhất của người con gái là tuổi xuân ở chiến trường, đánh rơi mất hạnh phúc chợt đến và không bao giờ đến nữa. Ai đã từng sống cái thời "Tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược" sẽ thấy điều này là hợp lý, không những Nguyệt mà nhiều người con gái thanh niên xung phong khác cùng một cách sống như vậy. Họ cống hiến sự sống của mình, hy sinh hạnh phúc riêng tư cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, cho hạnh phúc tương lai của trăm vạn người. Vì thế khi cái tình đã đến đỉnh điểm "Hơi thở gấp gáp. Đôi môi lần tìm. Và bộ ngực nóng hổi của Tám đốt lửa lên hai bầu vú căng nhức của Nguyệt làm Nguyệt như tan ra. Chiếc quần trên tay buông lỏng, rũ xuống, rơi... Nguyệt oằn mình, lả ra trên đôi tay của Tám... Khi bộ ngực của anh ập xuống dằn lên người Nguyệt thì Nguyệt bừng tỉnh..." Một cú đẩy rất mạnh đã làm Tám văng ra. Sau đó Nguyệt ân hận vì chuyến ra đi ấy anh đã vĩnh viễn không về, nhưng nếu lặp lại một cuộc tình như vậy cũng sẽ có một cú đẩy tay khác và người đàn ông sẽ văng ra. Đó là sự lựa chọn dứt khoát của lớp trẻ một thời đã làm nên vinh quang cho Tổ quốc. Sẽ có mâu thuẫn nhưng không có bị kịch nếu chiến tranh tàn khốc kết thúc Nguyệt có một mái ấm, có chồng con. Hạnh phúc lớp đàn chị trao cho lớp đàn em được giữ gìn trọn vẹn như trăng. Nhưng "Hai bắp đùi núng nính... lườn bụng săn cón... Hai bầu vú căng mẩy" đã "đến chốn héo tàn". Chị đi thẳng từ thời con gái đến chốn bà già không qua thời phụ nữ được làm mẹ, làm vợ. Ước mơ lớn lao là chiến thắng đế quốc hùng mạnh nhất địa cầu giành độc lập tự do cho dân tộc thì đạt. Ước mơ nhỏ, lẽ thường như nhiên của mọi người đàn bà là thiên chức làm vợ, làm mẹ thì không đạt. Hạnh phúc giành được bằng một giá rất đắt trao lại cho lớp sau bị một số người sử dụng méo mó. Giàu có thì ăn chơi trác táng. Tình yêu cũng có hợp đồng. Thai nhi được tính bằng tiền, không được giá, không có người mua thì dụt. Bi kịch được đẩy lên đỉnh điểm khi người hy sinh tất cả để giành hạnh phúc cho người khác lại bị người khác sử dụng hạnh phúc một cách bừa bãi, ô nhục, tàn nhẫn. Người đi giành hạnh phúc cho người lại đi nhặt hạnh phúc thừa của người khác vứt bỏ. Khi chị bồng cái thai nhi do Thị vứt lại ở Bãi Lình, "áp vào lòng... vỗ vào mông nó: ừa, mẹ thương... mẹ thương..." lần đầu tiên được gọi tiếng con và xưng mình là mẹ có gì đó vừa cay đắng vừa ngọt ngào dâng lên tràn ngập cả cõi lòng của người đàn bà cô độc. Khi chị đưa cái vú nhão nhoét chẳng có giọt sữa nào cho con bú, Cao Hạnh đã không kìm được tiếng lòng, phải kêu lên: "Nhưng than ôi!". Không biết nước mắt của người mẹ hay của Cao Hạnh "tong tỏng rơi", chỉ biết nước mắt của nhiều độc giả nhạt nhòa trang giấy. Cao Hạnh viết không ngại cứa vào nỗi đau của người đời nhưng vẫn mênh mông lòng nhân ái. Cái triết lý có hậu của phương Đông luôn được tôn trọng, rưới chút nắng vào lòng người dẫu sự đời có nhiều cay đắng. Nguyệt đã chiến đấu cứu đời, nhặt con người khác làm con mình còn là cứu người, làm được một việc "Phúc đẳng hà sa". Dù con nhặt, con người, khô bầu vú, đã đến thời héo tàn, Nguyệt đã được làm mẹ. "Người đàn bà lội sương" của Cao Hạnh hướng con người về một cái nhìn khác nữa: Di chứng chiến tranh ở tâm hồn. Một thứ di chứng khó nhìn thấy nhưng xót xa, to lớn biết chừng nào. Di chứng chất độc da cam có thể kiện, có thể bồi thường nhưng di chứng vô hình ấy kiện ai? Và ai có thể đền được? Chỉ có lòng nhân ái với nhau thôi! Cao Hạnh nói lên để khóc, và kỳ lạ thay nói lên để dịu bớt. Tài năng Cao Hạnh thể hiện trên nhiều đề tài nhưng trước hết vẫn là đề tài phụ nữ, đề tài chiến tranh. Nguyệt trong chiến tranh đã hy sinh hạnh phúc riêng tư, hy sinh tuổi thanh xuân cho đất nước chiến thắng. Nguyệt trong hòa bình phải chịu cái di chứng chiến tranh. Chiến tranh đã qua đi với nhiều người, riêng những người như Nguyệt chiến tranh vẫn còn đó. Ngày trước chiến đấu cùng đồng đội, bây giờ chiến đấu một mình nhưng không kém phần quyết liệt. Cao Hạnh đã đứng bên họ, cùng họ và cùng chúng ta đặt ra một câu hỏi lớn: Làm thế nào đây? Viết về phụ nữ, Cao Hạnh đi sâu những nét tâm lý cánh đàn ông không thể có. Viết về chiến tranh Cao Hạnh không sa vào sự ồn ào của bom đạn, không gồng lên với tăng pháo, đâm lê. Nhiều tác phẩm viết về chiến tranh không có tiếng súng nhưng "rất chiến tranh". Hạnh chú trọng lột tả tư tưởng, tình cảm của nhân vật trong chiến tranh, từ cái anh hùng đến cái thấp hèn, từ cái bi đến cái hài (cái hài có nước mắt- không có tiếng cười). Từng vấn đề, từng góc độ chiến tranh được miêu tả đúng bản chất. Cao Hạnh nói với tôi: "Một ngày tôi ngồi trên thuyền giữa dòng Thạch Hãn. Dòng sông một dãy mờ sương. Nhìn về Thành Cổ, tôi ngẫm về chiến tranh, về đất nước và con người, những sự hy sinh và kết quả, xã hội và những mảng đời riêng. "Người đàn bà lội sương" ra đời trong hoàn cảnh đó". Vậy là đất thiêng và con người Quảng Trị đã đẻ ra ý tưởng. Cái tâm và cái tài của nhà văn khiến "Người đàn bà lội sương" có hồn và sâu sắc. Lê Văn Thê