Tản văn: Cầu vồng ban trưa
(QT) - Về trưa, nắng dường như càng vàng hơn và tiếng ve rộ lên tầng tầng lớp lớp ở Nghĩa trang liệt sĩ quốc gia Tân Biên. Một cảm giác rất quen thuộc, đã từng có ở đâu đó đang chiếm ngập lòng tôi. Cái cảm giác bồn chồn, nóng bỏng, xoáy xiết như giông như bão này đã từng có trong tôi khi đứng dưới bầu trời mùa hạ chói chang giữa bạt ngàn bia mộ ở Nghĩa trang liệt sĩ quốc gia Trường Sơn. Đúng rồi, vẫn tiếng ve nhức nhức như lửa đầu nguồn, vẫn tiếng ve rền rã như những hồi kèn chiêu tập đồng đội, ...

Tản văn: Cầu vồng ban trưa

(QT) - Về trưa, nắng dường như càng vàng hơn và tiếng ve rộ lên tầng tầng lớp lớp ở Nghĩa trang liệt sĩ quốc gia Tân Biên. Một cảm giác rất quen thuộc, đã từng có ở đâu đó đang chiếm ngập lòng tôi. Cái cảm giác bồn chồn, nóng bỏng, xoáy xiết như giông như bão này đã từng có trong tôi khi đứng dưới bầu trời mùa hạ chói chang giữa bạt ngàn bia mộ ở Nghĩa trang liệt sĩ quốc gia Trường Sơn. Đúng rồi, vẫn tiếng ve nhức nhức như lửa đầu nguồn, vẫn tiếng ve rền rã như những hồi kèn chiêu tập đồng đội, vẫn tiếng ve mỏi mòn nhắc gọi người chưa trở lại. Lần đầu tiên tôi đến Tân Biên, cùng với những người bạn sinh Bắc sống Nam, đang ăn nên làm ra ở thành phố Hồ Chí Minh. Những người đi cùng tôi đang là chủ sở hữu của những biệt thự lộng lẫy ở ven sông Sài Gòn nhưng họ đã từng đặt chân tới 400 nghĩa trang liệt sĩ trong cả nước từ Trường Sơn, Đường Chín, Thành Cổ Quảng Trị đến Hang Tám cô, hang Lèn Hà, ngã ba Đồng Lộc rồi Điện Biên, Truông Bồn, Côn Đảo…Họ lặng lẽ đi tới những cõi thiêng như thế, ba bốn người thôi để thắp hương, dâng hoa và đọc thơ cho các liệt sĩ nghe. Tôi được họ gọi từ Hà Nội vào với tư cách là một người lính, tác giả của những vần thơ viết về liệt sĩ mà những người nặng lòng tri ân với quá khứ bi tráng này đã không ít lần đọc lên cho linh hồn các chiến sĩ nghe. Trên đường đến đây, tôi đã nghe một câu chuyện kỳ lạ nhuốm sắc màu tâm linh về Nghĩa trang liệt sĩ quốc gia Tân Biên này. Câu chuyện thực hư khó phân định khi ta chưa thấu hiểu được cõi chết là thế nào và liệu còn có một cuộc sống khác sau cuộc sống trần thế không. Chuyện rằng, có bác bán bánh mì qua đây vào lúc nhập nhoạng tối gặp một thanh niên mặc quân phục còn rất trẻ đứng bên đường vẫy tới. Anh hỏi mua tất cả bánh mì của bác. Bác rất ngạc nhiên nhưng cũng giao hết số bánh mì trong thùng cho anh và cầm tiền về nhà. Có điều gì đó khác thường nên trên đường trở về bác cứ bán tin bán ngờ. Khi vào nhà bác kể lại chuyện này cho vợ nghe và lấy tiền ra kiểm. Thật khó tin, những đồng tiền thật xen lẫn với những chiếc lá vàng. Sau một đêm thao thức trằn trọc, tờ mờ sáng bác đạp xe đến Nghĩa trang liệt sĩ quốc gia Tân Biên thì thật bất ngờ thấy trên mỗi nấm mộ có đặt một chiếc bánh mì. Mấy ngày sau, chẳng biết ai xui khiến bác mua vé xổ số và trúng luôn giải độc đắc hàng mấy trăm triệu. Ở Nghĩa trang liệt sĩ quốc gia Trường Sơn tôi cũng đã từng nghe những câu chuyện kỳ lạ. Tôi đã kể chuyện này trên một số tạp chí và báo. Đúng, sai tôi chẳng dám bàn, chỉ tin, rất tin vào sự bất tử của những người lính đã hy sinh cho Tổ quốc, trong lòng nhân dân họ vẫn sống, sống mãi. Niềm tin ấy vẫn còn vẹn nguyên hôm nay trong tôi khi đứng giữa mười ba nghìn nấm mộ liệt sĩ của chúng ta ở Nghĩa trang liệt sĩ quốc gia Tân Biên. Đây là những người lính, phần đông còn rất trẻ, họ ngã xuống khi mới mười bảy, mười tám, mười chín, hai mươi tuổi trong cuộc chiến đấu bảo vệ lãnh thổ ở biên giới Tây Nam của Tổ quốc và giúp bạn Campuchia đánh tan bọn diệt chủng Khơ me đỏ. Họ trẻ như tôi cách đây hơn ba mươi năm về trước. Họ từng là học sinh vừa tốt nghiệp cấp 3, hay đang là sinh viên các trường đại học, mới vào lính. Có người vừa bước ra khỏi cuộc chiến tranh chống Mỹ, chưa kịp lấy vợ sinh con, chưa kịp tìm cho mình một cô gái quê làng để yêu thương gắm gửi đã ngã xuống nơi những cánh rừng độc địa của xứ sở Ăng co. Trên đầu tôi là vầng xanh xa thẳm mênh mông với ánh nắng chan hòa yên ắng. Bên tôi, những nấm mộ bé nhỏ nằm san sát giữa những khóm hoa vàng rực mà tôi chưa biết tên. Xa xa mấy cây phượng đỏ rực hoa như những đài lửa ai vừa thắp lên trong miền đất biên viễn. Tôi cúi đầu thắp hương cho các liệt sĩ, mấy đường khói vòng vèo bay lên, mỏng mảnh như không có thật. Nước mắt trào ra lúc nào không biết, tôi nghẹn ngào đọc thơ cho các anh nghe. Trong tiếng ve ngằn ngặt, có giấc mơ của những người lính hồi quê về với mẹ: “ Những người lính trở về têm cho mẹ miếng trầu cay/Giấc mơ mẹ đỏ tươi từng giọt máu/Những người lính trở về xòe tay trên bếp khói/Giấc mơ mẹ mình đơm óng ả hạt mùa chiêm/ Những người lính trở về đánh rạ dọn rơm/Giấc mơ mẹ bay la dòng sữa trắng/Những người lính trở về cười ngượng nghịu/Giấc mơ người bật dậy tiếng oa oa …”. Và thêm một giấc mơ nữa cho các anh trở lại với người thân thương: “ Những người lính tay cầm bông huệ trắng/Đứng ngắm em bên giếng nước làng/Nước quê mẹ soi trăng sao vằng vặc/Những giọt khuya buông xuống khẽ khàng/Cỏ kéo da non qua vết thương sâu thẳm/ Qua bờ vai thiếu phụ bão giông ”…Một hình dung có thật, rất thật về những linh hồn đang đứng quanh tôi, lắng nghe những cảm xúc của tôi, những tự hào nhức buốt tuôn trào. Những dòng thơ được cộng hưởng vào bấy nhiêu đau thương, khát vọng của người đã khuất, chìm sâu vào cõi lặng người lính và thoát ra trên đôi cánh của các linh hồn bất tử. Có một năng lượng truyền dẫn vào tôi, mấp mé ngọn nguồn cháy sáng, vừa thăm thẳm vừa gần gũi làm sao. Tất cả như một giấc mơ đắm chìm trong sự liên thông huyền kỳ giữa người đã khuất và trần thế. Tôi, bạn bè tôi, dường như đã nghe được những nhịp đập vang lên từ hư vô thổn thức và không thể không tin rằng vẫn còn đó một dĩ vãng đang sống. Tại đây, ngay trên đất mẹ Việt Nam. Bên kia biên giới, dưới bóng cây thốt nốt u trầm. Còn không ít đồng đội ta bên ấy. Bao giờ anh em ta mới được về đây? Nghe rõ lắm những thầm thì trong sóng ve dồn dập. Ai có tin không chứng kiến này của chúng tôi: một cầu vồng hiện lên giữa trưa phía biên giới xa xa. Ánh nắng chói chang khúc xạ qua những giọt nước mắt chăng? Tôi mong có một nhịp cầu như thế cho bao đồng đội tôi trở lại quê mẹ yêu thương. NGUYỄN HỮU QUÝ