Phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn, vấn đề có tính quyết định trong việc nâng cao chất lượng xây dựng nông thôn mới
* NGUYỄN VĂN BÀI, TUV, Giám đốc Sở Nông nghiệp & PTNT Quảng Trị Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 05/8/2008 của Hội nghị lần thứ 7, BCH Trung ương Đảng (khóa X) đã đề ra mục tiêu tổng quát về phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới là "Không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của dân cư nông thôn, hài hoà giữa các vùng, tạo sự chuyển biến nhanh hơn ở các vùng còn nhiều khó khăn; nông dân được đào tạo có trình độ sản xuất ngang bằng với các nước tiên tiến trong khu vực và đủ bản lĩnh chính trị, đóng vai trò làm chủ nông thôn mới. Xây dựng nền nông nghiệp phát triển toàn diện theo hướng hiện đại, bền vững, sản xuất hàng hoá lớn, có năng suất, chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh cao, đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia cả trước mắt và lâu dài. Xây dựng nông thôn mới có kết cấu hạ tầng kinh tế- xã hội hiện đại; cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ, đô thị theo quy hoạch; xã hội nông thôn ổn định, giàu bản sắc văn hoá dân tộc; dân trí được nâng cao, môi trường sinh thái được bảo vệ; hệ thống chính trị ở nông thôn dưới sự lãnh đạo của Đảng được tăng cường. Xây dựng giai cấp nông dân, củng cố liên minh công nhân - nông dân - trí thức vững mạnh, tạo nền tảng kinh tế- xã hội và chính trị vững chắc cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”. Để cụ thể hóa mục tiêu đó vào cuộc sống, ngày 16/4/2009 Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 491/QĐ-TTg “ về ban hành bộ tiêu chí quốc gia về xây dựng nông thôn mới” gồm 19 tiêu chí với 39 chỉ tiêu và Quyết định số 800/QĐ-TTg ngày 4/6/2010 của Thủ tướng Chính phủ “Phê duyệt Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 - 2020”.
 |
Nông thôn vào mùa - Ảnh: LÊ ĐÌNH CẢNH |
Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới (NTM) là một chương trình tổng thể về phát triển kinh tế- xã hội, chính trị và an ninh quốc phòng ở nông thôn, gồm 11 nội dung sau: 1. Quy hoạch xây dựng nông thôn mới; 2. Phát triển hạ tầng kinh tế- xã hội; 3. Chuyển dịch cơ cấu, phát triển kinh tế, nâng cao thu nhập; 4. Giảm nghèo và an sinh xã hội; 5. Đổi mới và phát triển các hình thức tổ chức sản xuất có hiệu quả ở nông thôn; 6. Phát triển giáo dục - đào tạo ở nông thôn; 7. Phát triển y tế, chăm sóc sức khỏe cư dân nông thôn; 8. Xây dựng đời sống văn hóa, thông tin và truyền thông nông thôn; 9. Cấp nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn; 10. Nâng cao chất lượng tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể chính trị- xã hội trên địa bàn; 11. Giữ vững an ninh, trật tự xã hội nông thôn. Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng NTM là chương trình khung, dài hạn, 11 nội dung xây dựng NTM nêu trên phải được triển khai thực hiện đồng bộ, trong đó công tác quy hoạch phải đi trước một bước, trên cơ sở đó tùy theo điều kiện, nguồn lực của từng địa phương để bắt tay vào thực hiện ngay những nội dung khác. Để thực hiện có hiệu quả chương trình này, đòi hỏi phải quyết tâm, kiên trì, huy động sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, lồng ghép nhiều nguồn lực chương trình, dự án khác mới có thể thực hiện thành công. Nhìn chung, 11 nội dung xây dựng NTM đều quan trọng, trong đó việc đẩy mạnh phát triển sản xuất nông nghiệp chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao thu nhập, nâng cao đời sống vật chất cho nhân dân nông thôn là vấn đề trọng tâm có tính quyết định trong việc phát triển nông thôn bền vững. Chỉ có trên cơ sở phát triển sản xuất, nâng cao đời sống của bà con nông dân mới có thể giải quyết tốt hơn vấn đề an sinh xã hội, xóa đói, giảm nghèo bền vững, giảm các tệ nạn xã hội, nông dân yên tâm gắn bó với nông thôn và có tích lũy để đóng góp vào xây dựng hạ tầng nông thôn. Tuy nhiên, sau hơn 2 năm thực hiện Chương trình xây dựng NTM trên địa bàn Quảng Trị cho thấy: do nhận thức chưa đầy đủ nên trong công tác quy hoạch, nhiều địa phương chỉ chú trọng quy hoạch, đầu tư phát triển hạ tầng để xin vốn đầu tư mà xem nhẹ hoặc lúng túng trong việc quy hoạch phát triển sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Chưa khai thác được tiềm năng, lợi thế về đất đai, lao động, nguồn lực của các địa phương để chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo thêm ngành nghề và việc làm mới để tăng nhanh thu nhập, cải thiện đời sống nhân dân. Quyết định 800 QĐ/TTg của Thủ tướng Chính phủ đã nêu lên 5 nội dung cơ bản để đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển sản xuất, nâng cao thu nhập cho dân cư nông thôn là: 1. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu sản xuất nông nghiệp theo hướng phát triển sản xuất hàng hóa, có hiệu quả kinh tế cao; 2. Tăng cường công tác khuyến nông; đẩy nhanh nghiên cứu ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp; 3. Cơ giới hóa nông nghiệp, giảm tổn thất sau thu hoạch trong sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp; 4. Bảo tồn và hát triển làng nghề truyền thống theo phương châm “mỗi làng một sản phẩm”, phát triển ngành nghề theo thế mạnh của địa phương; 5. Đẩy mạnh đào tạo nghề cho lao động nông thôn, thúc đẩy đưa công nghiệp vào nông thôn, giải quyết việc làm và chuyển dịch nhanh cơ cấu lao động nông thôn. Để thực hiện có hiệu quả các nội dung đó, trong công tác quy hoạch sản xuất các địa phương phải rà soát chi tiết quỹ đất, xác định rõ số lượng, chất lượng, mục đích và hiệu quả sử dụng từng loại đất như: trồng cây hàng năm, cây lâu năm, cây lâm nghiệp, mặt nước nuôi trồng thủy sản, đất dùng cho phát triển ngành nghề, thương mại dịch vụ... Đánh giá đúng năng suất, chất lượng, hiệu quả của từng loại cây trồng, vật nuôi và ngành nghề dịch vụ đang phát triển trên địa bàn. Xác định rõ tiềm năng, lợi thế về đất đai, lao động, kinh nghiệm truyền thống, kỹ năng, kỹ thuật của nhân dân địa phương, dự báo nhu cầu thị trường của từng loại sản phẩm hàng hóa địa phương có thể sản xuất. Trên cơ sở đó xây dựng đề án phát triển nông nghiệp, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn có tính khả thi, thiết thực, hiệu quả phù hợp với điều kiện, đặc điểm của từng địa phương, quyết tâm và tích cực chỉ đạo thực hiện bằng được các mục tiêu đã đề ra. Trong đó cần chú trọng thực hiện tốt các nội dung sau: Đối với những nơi ruộng đất còn manh mún cần tiếp tục thực hiện việc đổi thửa, dồn điền, mở rộng quy mô sản xuất, xây dựng “cánh đồng mẫu lớn” tạo điều kiện thuận lợi cho việc đầu tư thâm canh, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và cơ giới hóa các khâu sản xuất để nâng cao năng suất cây trồng, khối lượng nông sản hàng hóa, giảm chi phí, nâng cao hiệu quả trên một đơn vị diện tích. Về lĩnh vực trồng trọt, việc đảm bảo an ninh lương thực trên địa bàn vẫn là trọng tâm, do đó phải giữ vững quỹ đất trồng lúa, đẩy mạnh việc sử dụng các giống lúa chất lượng cao, tích cực áp dụng các biện pháp kỹ thuật canh tác như: “3 giảm, 3 tăng”, “ một phải 5 giảm”, gieo lúa theo hình thức sạ hàng để nâng cao năng suất, hiệu quả sản xuất lúa. Tiếp tục thâm canh, mở rộng diện tích đối với các cây trồng có tiềm năng, lợi thế của từng vùng, trong đó tập trung đầu tư thâm canh những cây trồng có giá trị hàng hóa cao như lạc, sắn, khoai, môn, từ tía, cao su, hồ tiêu, cà phê, chuối, ...cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp chế biến, xuất khẩu. Về chăn nuôi, đối với chăn nuôi lợn và gia cầm cần chú trọng mở rộng hình thức chăn nuôi thâm canh, bán công nghiệp và công nghiệp theo hình thức trang trại, gia trại gắn với chăn nuôi an toàn sinh học, đảm bảo an toàn dịch bệnh và vệ sinh môi trường. Hướng dẫn, hỗ trợ các hộ gia đình nông dân mở rộng việc chăn nuôi trâu bò thâm canh theo hình thức kết hợp giữa trồng cỏ nuôi nhốt với chăn thả có điều kiện, các hộ gia đình có chăn nuôi trâu bò cần dành ra một ít diện tích đất khoảng 100 - 200 m 2 cho trồng cỏ chăn nuôi. Liên hệ trực tiếp với Trạm khuyến nông của các huyện để được hỗ trợ hướng dẫn tuyển chọn đàn bò nái tốt làm nền và thực hiện thụ tinh nhân tạo, nâng cao tỷ lệ đàn bò lai, nâng cao thể trọng, giá trị đàn bò của địa phương. Khuyến khích, hỗ trợ các hộ gia đình khôi phục phát triển gia súc, gia cầm bản địa chất lượng tốt, giá trị cao. Về lâm nghiệp, thực hiện tốt việc giao đất khoán rừng cho các hộ gia đình ổn định lâu dài để chăm sóc, bảo vệ và thụ hưởng các nguồn lợi từ rừng. Những nơi có đất rừng sản xuất, các địa phương cần hướng dẫn, hỗ trợ cho bà con nông dân đẩy mạnh trồng rừng thâm canh, hướng tới việc thực hiện chứng chỉ FSC về rừng để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh từ nghề rừng. Về thủy sản, đối với các địa phương ven biển, trên cơ sở thống kê đánh giá nguồn lợi khai thác hàng năm để tổ chức lại lực lượng khai thác đánh bắt, thành lập các tổ, nhóm gắn với tàu thuyền, ngư lưới cụ, từng bước hiện đại hóa máy móc trang thiết bị hiện đại về thông tin liên lạc, máy tìm dò nguồn cá... nhằm không ngừng nâng cao năng suất khai thác đánh bắt, đảm bảo an toàn khi ra khơi, góp phần bảo vệ biển, đảo quê hương. Trong công tác nuôi trồng thủy sản cần có biện pháp quản lý tốt vệ sinh an toàn hồ nuôi, quản lý tốt nguồn giống thủy sản nuôi trồng, đảm bảo an toàn dịch bệnh và an toàn vệ sinh thực phẩm. Về phát triển ngành nghề dịch vụ, đây là nội dung hết sức quan trọng trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, phân công lại lao động, tạo thêm việc làm mới, theo phương thức “ly nông bất ly hương”. Để thực hiện được nội dung này, từng địa phương phải có quy hoạch quỹ đất dành cho phát triển ngành nghề dịch vụ, xây dựng đề án chi tiết phát triển ngành nghề dịch vụ trên địa bàn, một mặt chú trọng khôi phục phát triển các ngành nghề truyền thống, mặt khác tích cực phát triển các ngành nghề dịch vụ mới. Tổ chức các lớp đào tạo nghề cho lao động nông thôn, tạo môi trường thuận lợi hỗ trợ cho các hộ gia đình phát triển nghề, từng bước chuyển dịch lao động nông nghiệp sang làm ngành nghề khác, phấn đấu đến năm 2020 chỉ còn khoảng 35% lao động trực tiếp làm nông nghiệp. Nâng cao hiệu quả hoạt động của các hình thức tổ chức kinh tế trong nông thôn. Trong công tác quy hoạch, xây dựng đề án phát triển sản xuất các địa phương cần chú trọng quy hoạch đất đai dành cho phát triển trang trại, gia trại, từng bước tách chăn nuôi tập trung ra khỏi khu dân cư để đảm bảo an toàn dịch bệnh và vệ sinh môi trường. Tạo điều kiện, khuyến khích phát triển các trang trại trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản để nâng cao hiệu quả sản xuất, nâng cao khối lượng nông sản hàng hóa, tạo mô hình tốt cho các hộ nông dân khác học và làm theo. Củng cố, nâng cao hiệu quả hoạt động của hợp tác xã và các tổ hợp tác để làm tốt vai trò dịch vụ hỗ trợ cho các hộ gia đình nông dân sản xuất hiệu quả. Mở rộng các hình thức liên doanh, liên kết trong sản xuất, chế biến, tiêu thụ sản phẩm giữa các hộ gia đình, các trang trại với các HTX, các doanh nghiệp trong nông nghiệp. Tăng cường các hoạt động của các cơ quan, ban ngành chức năng trong việc tập huấn, hướng dẫn, cung ứng, chuyển giao tiến bộ kỹ thuật cho nông dân về giống cây trồng vật nuôi thủy sản, khuyến nông, bảo vệ thực vật, thú y, đào tạo nghề cho lao động nông thôn. Khơi thông các nguồn vốn tín dụng, tạo điều kiện thuận lợi cho bà con nông dân vay vốn, phát triển sản xuất, mở mang ngành nghề, dịch vụ. Đẩy mạnh phát triển sản xuất nông nghiệp, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn để tăng nhanh thu nhập, cải thiện đời sống cho dân cư nông thôn là vấn đề vừa có tính cấp bách trước mắt, vừa lâu dài, là nội dung trọng tâm xuyên suốt của quá trình xây dựng NTM, là cơ sở, tiền đề cho việc giải quyết tốt an sinh xã hội, giữ vững an ninh quốc phòng, trật tự an toàn xã hội nông thôn. Đây là nội dung không cần nhiều vốn, không cần huy động nhiều nguồn lực, nhưng đòi hỏi các địa phương, các hộ gia đình phải chủ động, sáng tạo trong việc khai thác tiềm năng, lợi thế về đất đai, lao động, nguồn vốn tự có, kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm truyền thống... để phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, tạo thêm ngành nghề, việc làm mới. Các cấp, các ngành, các cơ quan chuyên môn trong hệ thống chính trị có trách nhiệm hỗ trợ, hướng dẫn, chuyển giao tiến bộ kỹ thuật, cung ứng, dịch vụ các loại giống cây trồng, vật nuôi, vật tư hàng hóa chất lượng tốt, tổ chức hệ thống chế biến, tiêu thụ nông sản hàng hóa kịp thời cho bà con nông dân. Rà soát lại các cơ chế chính sách, lồng ghép các chương trình, dự án, tạo điều kiện thuận lợi cho địa phương, cơ sở và nhân dân dễ dàng tiếp cận được các nguồn vốn hỗ trợ đầu tư của nhà nước, nguồn vốn vay của các tổ chức tín dụng để thâm canh, mở rộng sản xuất, phát triển các ngành nghề, dịch vụ mới. Trong điều kiện nhân dân nông thôn còn nghèo, nguồn lực hỗ trợ đầu tư của nhà nước có hạn, cơ chế chính sách chung còn nhiều bất cập, việc thực hiện nội dung đẩy nhanh tốc độ phát triển sản xuất nông nghiệp, chuyển dịch cơ cấu nông thôn để tăng nhanh thu nhập cho dân cư nông thôn sẽ gặp nhiều khó khăn. Chính vì vậy các địa phương, cơ sở phải có những giải pháp rất cụ thể, thiết thực, phải chủ động, sáng tạo, quyết tâm, kiên trì trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện, đồng thời các tổ chức chính trị xã hội, nghề nghiệp cần xây dựng chương trình, kế hoạch chung tay với địa phương, cơ sở và bà con nông dân mới có thể thực hiện thành công.