Nâng cao hiệu quả quản lý biên giới
(QT) - Nhằm góp phần giữ gìn an ninh, củng cố mối quan hệ đoàn kết đặc biệt giữa nhân dân các bản đối diện trên truyền biên giới Việt - Lào, Bộ đội Biên phòng (BĐBP) Quảng Trị đã triển khai thành công mô hình “Kết nghĩa bản – bản hai bên biên giới”. Để đọc giả hiểu rõ hơn về mô hình này, chúng tôi đã có cuộc trao đổi với Trung tá Lê Văn Sỹ - Phó Chủ nhiệm Chính trị BĐBP tỉnh. - Thưa đồng chí! Được biết Quảng Trị là tỉnh đầu tiên trên toàn quốc triển khai mô hình “Kết nghĩa bản – bản hai bên ...

Nâng cao hiệu quả quản lý biên giới

(QT) - Nhằm góp phần giữ gìn an ninh, củng cố mối quan hệ đoàn kết đặc biệt giữa nhân dân các bản đối diện trên truyền biên giới Việt - Lào, Bộ đội Biên phòng (BĐBP) Quảng Trị đã triển khai thành công mô hình “Kết nghĩa bản – bản hai bên biên giới”. Để đọc giả hiểu rõ hơn về mô hình này, chúng tôi đã có cuộc trao đổi với Trung tá Lê Văn Sỹ - Phó Chủ nhiệm Chính trị BĐBP tỉnh. - Thưa đồng chí! Được biết Quảng Trị là tỉnh đầu tiên trên toàn quốc triển khai mô hình “Kết nghĩa bản – bản hai bên biên giới”. Đồng chí có thể cho biết ý tưởng này xuất phát từ đâu?

- Nhân dân sinh sống ở tuyến biên giới thuộc tỉnh Quảng Trị và hai tỉnh Savanakhet, Salavan (Lào) vốn có mối quan hệ thân tộc, gắn bó lâu đời với nhau. Họ cùng chung nhiều nét tương đồng về ngôn ngữ, tín ngưỡng, phong tục, tập quán... Trước năm 2005, khái niệm quốc gia, quốc giới vẫn chưa thực sự in sâu trong nhận thức bà con. Điều đó dẫn đến nhiều vấn đề đáng lo ngại trong công tác quản lý, bảo vệ biên giới như nạn xâm canh, xâm cư, mâu thuẫn rừng ma, không đăng ký kết hôn khác quốc tịch... Từ thực tiễn ấy, thực hiện đường lối, chủ trương nhất quán của hai Đảng, hai Nhà nước, Tỉnh ủy, UBND tỉnh Quảng Trị đã giao cho Bộ chỉ huy BĐBP tỉnh chủ trì xây dựng đề án “Phong trào quần chúng tham gia tự quản đường biên cột mốc, giữ gìn an ninh trật tự thôn bản khu vực biên giới, gắn với việc tổ chức kết nghĩa bản - bản hai bên biên giới”. Năm 2005, mô hình “Kết nghĩa bản - bản hai bên biên giới” chính thức được phê duyệt. Mục tiêu của mô hình là động viên nhân dân cùng thực hiện nghiêm túc Hiệp định, Hiệp nghị biên giới mà Đảng, Nhà nước và Chính phủ Việt Nam – Lào đã ký kết; khuyến khích nhân dân hỗ trợ nhau phát triển kinh tế - xã hội, giữ gìn an ninh chính trị, đặc biệt phát huy vai trò của già làng, trưởng bản, người có uy tín ở các bản làng biên giới... - Đề nghị đồng chí cho biết, tỉnh Quảng Trị nói chung và lực lượng BĐBP nói riêng đưa mô hình “Kết nghĩa bản – bản hai bên biên giới” vào thực tiễn như thế nào và đạt được kết quả gì? -Phát huy kết quả phong trào “Quần chúng tham gia tự quản đường biên, cột mốc, giữ gìn an ninh trật tự thôn bản khu vực biên giới”, từ năm 2005, lãnh đạo tỉnh Quảng Trị và hai tỉnh Savanakhet, Salavan đã thống nhất tổ chức ký kết nghĩa bản - bản đối diện hai bên biên giới. Ngày 28/4/2005 lễ kết nghĩa điểm giữa bản Ka Tăng (thị trấn Lao Bảo, huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị) và bản Đen Sa Vẳn (huyện Sê Pôn, tỉnh Savanakhet) đã diễn ra. Kế tiếp đó là lễ kết nghĩa giữa 2 bản La Lay (xã A Ngo, huyện Đakrông, tỉnh Quảng Trị) và bản La Lay A Xói (Cụm bản II, huyện Sa Muồi, tỉnh Salavan). Đến tháng 9/2010, 23/23 cặp bản đối diện hai bên biên giới giữa tỉnh Quảng Trị với 2 tỉnh Savanakhet và Salavan đã tổ chức lễ kết nghĩa.

Cán bộ, chiến sĩ biên phòng giúp người dân các bản biên giới khắc phục hậu quả lũ lụt -Ảnh: Q H

Được sự tham mưu tích cực của BĐBP Quảng Trị và lực lượng bảo vệ biên giới của hai tỉnh Savanakhet và Salavan, cấp ủy, chính quyền các địa phương khu vực biên giới đã thường xuyên chỉ đạo, hướng dẫn Ban điều hành các cặp bản kết nghĩa duy trì tốt hoạt động giao ban, trao đổi tình hình, đôn đốc thực hiện các nội dung đã ký kết... Vừa qua, nhân kỷ niệm 50 năm ngày thiết lập quan hệ ngoại giao giữa hai nước 5/9 (1962 - 2012), 35 năm ngày ký Hiệp ước hữu nghị hợp tác Việt Nam - Lào 18/7 (1977 - 2012), thực hiện kế hoạch thỏa thuận giữa tỉnh Quảng Trị với hai tỉnh Savanakhet và Salavan, từ ngày 20 - 29/4/2012 các cặp bản đã tiến hành sơ kết 5 năm thực hiện kết nghĩa bản - bản đối diện hai bên biên giới. Trong đó, 21 cặp bản tổ chức lễ sơ kết tại tỉnh Quảng Trị, một cặp bản tổ chức tại tỉnh Savanakhet, một cặp bản tổ chức tại tỉnh Salavan. Có thể khẳng định mô hình “Kết nghĩa bản - bản đối diện hai bên biên giới” mang lại hiệu quả rất thiết thực, góp phần tạo sự chuyển biến trong nhận thức của các cấp ngành và nhân dân hai bên biên giới về chủ quyền lãnh thổ, biên giới quốc gia. Qua đó, sức mạnh của quần chúng nhân dân trong xây dựng, quản lý, bảo vệ chủ quyền an ninh và lợi ích quốc gia trên tuyến biên giới được phát huy mạnh mẽ. Người dân ngày càng tích cực hơn trong việc tham gia xây dựng, quản lý và bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội khu vực biên giới, phối hợp ngăn chặn các hoạt động lợi dụng chính sách dân tộc, tôn giáo để chia rẽ tình đoàn kết hữu nghị giửa hai Đảng, hai Nhà nước; đấu tranh có hiệu quả với các loại tội phạm như buôn bán phụ nữ, trẻ em, ma túy, vật liệu nổ...qua biên giới. Bên cạnh đó, thông qua mô hình, chính quyền và nhân dân hai nước đã chung lưng, đấu cật hỗ trợ nhau phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, từng bước nâng cao đời sống vật chất cũng như tinh thần, giúp đỡ nhau lúc khó khăn hoạn nạn; đẩy mạnh các hoạt động trao đổi, học tập kinh nghiệm... Nhờ thế, hoạt động đối ngoại biên giới, đối ngoại nhân dân được tăng cường và mở rộng cả về hình thức lẫn nội dung. - Qua thực tiễn xây dựng mô hình “Kết nghĩa bản – bản hai bên biên giới” tại Quảng Trị, đồng chí cho biết BĐBP tỉnh đã đúc kết những kinh nghiệm gì để góp phần nhân rộng mô hình trên toàn quốc? -Đối với chúng tôi, thành công hôm nay mới là bước khởi đầu, song đó là nền tảng vững chắc, động viên cán bộ, chiến sĩ BĐBP quyết tâm hơn nữa trong việc xây dựng tuyến biên giới hòa bình, thắm tình hữu nghị. Từ khi bắt tay xây dựng mô hình “Kết nghĩa bản – bản hai bên biên giới”, chúng tôi xác định phải đặt công tác tuyên truyền lên hàng đầu. Tuyên truyền tốt thì nhận thức của cán bộ và nhân dân vùng biên giới mới được nâng cao. Qua đó, bà con sẽ tự giác hơn trong việc thực hiện các quy chế chung và cam kết của từng hộ gia đình. Thực tế, kết nghĩa bản - bản hai bên biên giới là việc làm hợp lòng dân. Vì vậy, các nội dung, quy chế kết nghĩa phải trực tiếp do nhân dân hai bên tự xây dựng, trên cơ sở định hướng của cấp ủy, chính quyền, phù hợp với phong tục tập quán sinh hoạt, được toàn thể dân bản hai bên biên giới nắm rõ và cam kết cùng nhau thực hiện. Nội dung kết nghĩa cần được thường xuyên bổ sung, sửa đổi để tạo điều kiện cho quần chúng tự giải quyết các vấn đề nảy sinh từ thực tiễn. Khi triển khai mô hình “Kết nghĩa bản – bản hai bên biên giới”, chúng tôi cũng luôn quan tâm đến việc phát huy vai trò tham mưu của lực lượng chuyên trách bảo vệ biên giới. Trong đó, BĐBP và lực lượng bảo vệ biên giới của hai bên đóng vai trò nòng cốt, trực tiếp tham mưu cho cấp ủy, chính quyền và mặt trận các xã, cụm xã biên giới tổ chức các hoạt động đối ngoại biên phòng, đối ngoại nhân dân. Ngoài ra, chúng tôi duy trì hoạt động giao ban định kỳ để giải quyết các vấn đề mới phát sinh; hỗ trợ người dân bằng các việc làm cụ thể như cung cấp giống cây trồng, vật nuôi, hướng dẫn cách làm ăn, thăm viếng và giúp đỡ các gia đình khó khăn; phát huy vai trò của già làng, trưởng bản; kịp thời tuyên dương, khen thưởng các cá nhân, tập thể có thành tích xuất sắc trong thực hiện kết nghĩa bản - bản hai bên biên giới. -Xin cảm ơn đồng chí! QUANG HIỆP (thực hiện)