Có những ngày như thế
(QT) - Đó là câu chuyện của những năm sáu bảy, sáu tám. Tôi là người lính “ăn cơm Bắc đánh giặc Nam”. Đi hết một vòng “Vĩnh Linh lũy thép” mới thấy đây là nơi “lửa chọi lửa”, “mặt đất nứt chiến hào”, từ làng này qua làng khác được nối thông bằng những giao thông hào đào ngang tới ngực. Qua sông Bến Hải, tôi men theo lối vào làng Huỳnh Hạ, Vĩnh Sơn. Cánh đồng khô cỏ cháy. Thi thoảng có một căn hầm dân quân trụ lại. Hố bom và hố pháo loang lổ. Mặt đất như trên bề mặt mặt trăng.Từ Huỳnh Hạ đi ra Duy Viên, qua làng Phúc Lâm, xã Vĩnh Lâm là hậu cứ của Trung đoàn 37, đơn vị hỗ trợ cho các xã phía Nam. Hồ Xá chỉ còn lại những đống gạch vỡ, xương sắt trồi ra. Vĩnh Nam, Vĩnh Trung, Vĩnh Kim, Vĩnh Thạch... là những làng chiến đấu chỉ còn lại ông già và nữ dân quân. Bầu trời lúc nào cũng sôi sùng sục. Tiếng máy bay gầm rít, tiếng súng cao xạ nổ lục bục, xen lẫn tiếng súng trường K44 nổ từng phát một.
 |
Một góc thị trấn Hồ Xá - Ảnh: HOÀNG GIANG |
Tất cả bà con đều đi sơ tán ở Tân Kỳ, Nghệ An, làng chỉ còn lại chủ yếu thanh niên kiên trì bám trụ. Không có thống kê đầy đủ nhưng tôi biết Vĩnh Linh chỉ còn khoảng hơn vài ngàn người. Họ sống dưới làn bom đạn mà chiến đấu. Có thể khẳng định, mỗi giây phút đi qua, mạng sống con người ở đây là thứ vô giá. Cơm ăn chỉ có gạo hẩm và rau muống xào, nếu có tí mì chính cho vào là sang trọng lắm. Ăn xong là ra trận địa trực chiến hoặc ra đồng sản xuất. Tôi còn nhớ, ở làng Duy Viên có một cửa hàng, tất nhiên là trong một cái lán rộng chừng mười mét. Cửa hàng bán chiếu gon, đường trắng, khăn mặt, vải thô đen...Nam nữ thanh niên ăn mặc chỉ độc có loại vải thô. Nữ dân quân lấy vải nhúng bùn thành nâu đen rồi may thành quần áo mặc. Nếu có bộ đội chủ lực đi qua làm quà cho thì có được bộ áo quần Tô Châu sang lắm. Ở Vĩnh Linh (Quảng Trị) thời ấy, thanh niên hầu hết có bằng cấp 3, chí ít là hết lớp 7. Nhiều thanh niên mê Kiều, họ có sẵn cả bộ tiểu thuyết “Chiến tranh và hòa bình” của N.A ostrovsky “Thép đã tôi thế đấy” của Ethelilian Voynich...Văn nghệ là thứ mà dân quân Vĩnh Linh mê nhất. Bài thơ “Tôi là người dân quân đất tuyến Vĩnh Linh’’ một sáng tác của nhà thơ Cảnh Trà, đi đâu cũng nghe đọc. Nếu nghe được anh Sĩ Sồ ngâm thì khỏi phải chê. Một lần ra đến mé sông Bến Hải, tôi vụm tay gọi đò. Một cụ già lướt mái chèo ra sông. Bom nổ chậm nổ ùng oàng trào lên những cột sóng. Cụ vẫn chèo đến bờ mời anh em tôi lên rồi khoan thai chèo sang sông. Hỏi tên cụ, cụ chỉ trả lời Cụ Lái. Ra tận Duy Viên, tìm vào một lán dân quân xin nghỉ lại. Trời ạ ! Hầm chỉ có hai chị em. Người chị tên là Thơm, còn em là Thảo. Hỏi ra mới biết Thơm cưới chồng được ba hôm là anh ấy đi cho tới bây giờ. Nghe nói anh vào bộ đội chủ lực, đi không hẹn ngày về. Tội nghiệp cho Thơm. Đêm ấy bốn anh em phải ngủ chung một hầm. Cô Thảo bảo phải nằm xuôi ngược thôi. Tôi và Tâm nằm xuôi còn hai chị em Thơm nằm quay ngược đầu lại. Tuổi hai mươi như tôi phải nằm trong tư thế đấy nên không tài nào ngủ được. Đêm về khuya, Thơm gác đùi lên người tôi. Ôi! mùi da thịt con gái lần đầu tôi cảm nhận.Thơm cũng thức như tôi. Cô nói khẽ: “Sao mình khổ thế anh nhỉ?”. Bà con Vĩnh Linh lúc bấy giờ ấy rất thích mì chính. Mỗi lần vào chiến trường, chúng tôi cố mua cho được những gói mì chính 50 gam. Ra Vĩnh Linh, chúng tôi đổi một gói một con gà hơn một cân. “Gà riêng cháo chung’’, cứ thế bỏ vào nồi nấu lên bồi dưỡng. Nhớ hôm đi nhận quân trang dưới chân núi Lò Reng, chúng tôi tham lam nhận thêm tăng võng. Hành quân lên Bãi Hà, dọc đường nặng qua không cõng nổi đành vứt bỏ. Rừng Bãi Hà rậm rạp là thế mà B52 quần nát. Bom dội cùng với thuốc độc khai quang nên cả cánh rừng đỏ ối. Những binh trạm vàng chóe vỏ đạn 130 ly và ngổn ngang thùng đạn. Có lần tôi vừa vượt sông Bến Hải, gặp máy bay thả bom chậm xuống lòng sông. Máy bay ràn rạt bay sát mặt sông, thấy rõ phi công mặt đỏ gay. Tôi và anh em dân quân Huỳnh Hạ nổ súng, cứ cách thân bảy lần mà néo cò. Máy bay vẫn gầm rít. Hình như đạn AK không bỏ bèn gì với nó. Một lần, ba chiếc f4 lao xuống ném bom vào trận địa cao xạ gần núi Lò Reng. Một chiếc dính đạn 37 ly, phi công lao ra khỏi máy bay. Chiếc dù lừng lững rơi xuống. Chúng tôi khép vòng vây, bắt được một tên. Chiến lợi phẩm hôm đó là chiếc áo giáp, một bộ câu cá, một chiếc thuyền cao su, một tờ giấy xin ăn...Lính Mỹ chu đáo thật. Bảo phi công bước lên chiếc xe trâu, anh ta vụng về sợ hãi. Về Vĩnh Trung, Vĩnh Nam, Vĩnh Thạch...những vườn cây chè mít đều bị bom pháo Mỹ cày xới, gãy đổ. Câu khẩu hiệu “Nhà tan cửa nát cũng ừ, đánh tan giặc Mỹ cực chừ sướng sau” được viết lên trên mặt hầm lán khắp nơi. Từ trong tâm thức người Vĩnh Linh, đánh Mỹ là khẩu hiệu thiêng liêng nhất. Những bức thư từ vùng dân sơ tán gởi về cho người thân đều chúc “thắng Mỹ”. Trai gái yêu nhau đều hẹn ngày thắng Mỹ. Có những buổi liên hoan tiễn người ra trận, mọi người chia thành nhóm nhỏ vì sợ bom pháo, ngồi đọc thơ và hát. Những bài hát “Vĩnh Linh quê mẹ” vang lên trong hầm sâu với giai điệu trầm hùng tha thiết như thúc giục người đi. “ Đứng bên ni Trường Sơn một dải, nghe bên kia sóng vỗ Cửa Tùng... ”. Ai một thời sống chiến đấu ở Vĩnh Linh khi nghe bài hát đó mà không nao lòng. Trai gái Vĩnh Linh thời ấy rất thích chiếc dù hoa. Dù làm bằng sợi nilon nhuộm hình lá cây xanh. Họ thích vì nó nhẹ bẫng, rất tiện khi khoác lên vai ngụy trang. Chiếc dù hoa, đài Oriongtong có được là oai lắm. Bẵng đi một thời gian dài, tôi có dịp về lại Duy Viên sau khi đã nhận đủ quân trang. Vẫn căn hầm cũ với mái lán đơn sơ, tôi gặp lại Thơm. Trời ơi! Thơm trước mặt tôi già đi trông thấy. Chính giữa căn lán là bàn thờ nghi ngút khói hương. Một tấm hình anh bộ đội nghiêm trang. Linh cảm mách bảo tôi rằng chồng của Thơm đã hy sinh. Tôi không dám hỏi gì, sợ khuấy động lòng cô. Tôi nói: “Cô vẫn khỏe chứ?”. Thơm cảm ơn và lặng lẽ nhìn tôi. Thầm nghĩ, hy sinh là chuyện quá bình thường ở Vĩnh Linh thời ấy nhưng với Thơm sao có cái gì đó tội nghiệp. Cưới chồng chỉ vỏn vẹn 3 hôm cũng mang tiếng gái có chồng. Cô sống vậy qua năm qua tháng, tuổi xuân đi qua lúc nào không hay biết. Ở Vĩnh Linh những năm tháng chiến tranh, con người đã quen sống trong hầm lán nên chuyện ấy cũng bình dị như bản chất mộc mạc hiền từ vốn có. Sống và chết nhẹ như không, không có của để dành, không có tài sản đáng giá. Có chút ngọt lành là bà con chia sẻ cho xóm giềng làng nước. Viết lại một vài kỷ niệm về mảnh đất và con người Vĩnh Linh, tôi như muốn nhắc nhớ về ký ức một thời đã sống và chiến đấu, mong sao thế hệ hôm nay biết có một thời vẻ vang và oanh liệt như thế. ĐỨC TIÊN