Khoa học kĩ thuật là yếu tố quyết định nâng cao năng suất, chất lượng sản xuất
(QT) - Nông nghiệp Quảng Trị thời gian qua đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, kết quả đó trước hết là nhờ sự vào cuộc kịp thời của cán bộ, lãnh đạo ngành Nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Quảng Trị cũng như mạnh dạn ứng dụng tiến bộ khoa học kĩ thuật vào sản xuất. Để hiểu rõ hơn về vấn đề này, phóng viên Báo Quảng Trị có cuộc phỏng vấn ông TRẦN THANH HIỀN, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và PTNT tỉnh.

Khoa học kĩ thuật là yếu tố quyết định nâng cao năng suất, chất lượng sản xuất

(QT) - Nông nghiệp Quảng Trị thời gian qua đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, kết quả đó trước hết là nhờ sự vào cuộc kịp thời của cán bộ, lãnh đạo ngành Nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Quảng Trị cũng như mạnh dạn ứng dụng tiến bộ khoa học kĩ thuật vào sản xuất. Để hiểu rõ hơn về vấn đề này, phóng viên Báo Quảng Trị có cuộc phỏng vấn ông TRẦN THANH HIỀN, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và PTNT tỉnh.

- Thưa ông! Thăm đồng đầu năm, lãnh đạo ngành Nông nghiệp và phát triển nông thôn (NNPTNT) vui mừng vì bà con nông dân đã gieo cấy xong vụ đông xuân 2018-2019. Ông có khuyến cáo gì với nông dân trong những ngày này và thời gian tiếp theo để bảo đảm hạn chế những bất thuận của thời tiết có thể xảy ra trên cây trồng, con nuôi, hướng đến một vụ mùa bội thu?

- Ngay đầu vụ đông xuân, do thời tiết mưa rét nên toàn tỉnh có gần 1.200 ha lúa phải gieo cấy lại. Tuy nhiên, cho đến nay lúa đông xuân phát triển rất tốt, bà con nông dân đang tập trung chăm sóc dặm tỉa. Theo báo cáo mới nhất của Chi cục Trồng trọt và bảo vệ thực vật (BVTV), đến nay toàn tỉnh có gần 200 ha bị nhiễm bệnh đạo ôn, nhiều diện tích bị chuột và ốc bươu vàng gây hại. Với diễn biến của thời tiết hiện nay, ngày nắng xen kẽ âm u, sáng sớm có sương mù và có mưa rải rác sẽ là điều kiện thuận lợi cho các đối tượng sâu bệnh như: đạo ôn, bệnh đốm sọc vi khuẩn, bạc lá, rầy nâu, rầy lưng trắng phát sinh gây hại mạnh, nhất là bệnh đạo ôn có khả năng sẽ gây cháy trên nhiều diện tích nếu không chủ động phòng trừ kịp thời.

Bên cạnh đó, với dự báo vụ đông xuân 2018 -2019 sẽ là một vụ đông xuân ấm, nền nhiệt độ cao hơn trung bình nhiều năm cùng kì, lượng mưa thấp hơn trung bình nhiều năm cùng kì thì nguy cơ khô hạn sẽ xảy ra ngay trong vụ đông xuân là rất lớn. Vì vậy, để hạn chế thấp nhất thiệt hại do thiên tai và thời tiết, bà con nông dân cần phải chủ động, thường xuyên thăm đồng để kịp thời phát hiện, xử lí các đối tượng sâu bệnh, chăm sóc, bón phân cân đối theo khuyến cáo của cán bộ kĩ thuật, sử dụng nước tưới tiết kiệm, điều chỉnh lúa trổ gọn trong khung thời vụ 5 -15/4, kịp thời phản ánh các thông tin về tình hình sâu bệnh, phát triển của cây trồng với các cơ quan chuyên môn để có giải pháp chỉ đạo, kịp thời, hiệu quả.

- Năm 2018 lần đầu tiên sản lượng lương thực có hạt đạt gần 29 vạn tấn, cao nhất từ trước đến nay. Kết quả đó cho thấy việc mạnh dạn ứng dụng tiến bộ khoa học kĩ thuật vào sản xuất có vai trò rất quan trọng. Đề nghị ông cho biết những tiến bộ khoa học kĩ thuật được áp dụng trên địa bàn thời gian qua gắn với những việc làm cụ thể nào của ngành NN-PTNT tỉnh Quảng Trị?

- Năm 2018, sản xuất nông nghiệp đạt được nhiều kết quả nổi bật, ấn tượng, cả hai vụ sản xuất lúa đều đạt năng suất, sản lượng và giá trị cao nhất từ trước đến nay, năng suất lúa bình quân toàn tỉnh đạt 56,2 tạ/ha, cao hơn 6,2 tạ/ha so với cùng kì năm trước. Sản lượng lương thực đạt gần 29 vạn tấn, vượt 11,47% kế hoạch.

Ngành NN-PTNT đang tập trung cơ cấu lại nền nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững, chuyển dần từ nền nông nghiệp theo số lượng, hướng đến chất lượng và giá trị. Vì vậy, khoa học kĩ thuật được xem yếu tố quyết định để nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả của sản xuất.

Mô hình cánh đồng lớn sản xuất lúa chất lượng cao theo hướng hàng hóa . Ảnh: TUỆ LINH

Xác định giống là yếu tố quyết định đến năng suất, chất lượng nông sản. Ngành NN- PTNT đã tập trung chỉ đạo các đơn vị chuyên môn thường xuyên khảo nghiệm và đưa vào sử dụng nhiều bộ giống cây trồng mới chất lượng cao như: giống lúa TBR279, HN6, Lộc trời 1, Bắc hương 9, giống Lạc L14, L20; giống ngô CP888, HN68, MX10; giống cà phê chè mới Thai 1, TN1, TN5... Kết quả có hơn 80% diện tích lúa được sử dụng giống ngắn ngày, chất lượng cao, thích ứng với biến đổi khí hậu (BĐKH). Hơn 6.000 ha cánh đồng lớn sản xuất thông minh thích ứng với BĐKH, quy mô mỗi cánh đồng 20 - 50 ha được sản xuất cùng một giống, một quy trình có liên kết với doanh nghiệp trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, giảm đáng kể phát thải khí nhà kính nhờ áp dụng quy trình canh tác tiên tiến (giảm 1,73 lần hệ số phát thải khí nhà kính so với phương thức canh tác truyền thống); áp dụng công cụ sạ hàng (giảm 48% lượng giống gieo); phân bón (giảm 30% lượng phân đạm); hạn chế sử dụng thuốc bảo vệ thực vật thông qua chương trình IPM, ICM, sử dụng nước tiết kiệm thông qua tưới phun mưa, tưới nông lộ phơi, giúp nông dân có lợi nhuận tăng hơn 12 - 15 triệu đồng/ha so với sản xuất truyền thống.

Nhận thấy điểm nghẽn lớn nhất trong sản xuất là đất đai manh mún, nhỏ lẻ, năm 2018, Sở NN- PTNT tiếp tục đồng hành với các doanh nghiệp (DN), làm cầu nối liên kết giữa DN với HTX/hộ nông dân để đẩy mạnh sản xuất theo hướng hữu cơ, đảm bảo an toàn thực phẩm như: liên kết với Công ty TNHH Đại Nam- Nhà máy sản xuất phân bón Ong biển mở rộng diện tích 300 ha lúa hữu cơ, thân thiện với môi trường theo công nghệ Obi-Ong biển, đạt hiệu quả trên cả 3 mặt kinh tế, xã hội và môi trường, từng bước xây dựng thành công thương hiệu gạo hữu cơ Quảng Trị; nhân rộng mô hình canh tác tự nhiên ở huyện Triệu Phong trên nhiều cây trồng, con nuôi; mở rộng diện tích trồng cây ăn quả hữu cơ (cam, bưởi, thanh long...); liên kết sản xuất tiêu hữu cơ với quy mô 100 ha ở Gio An-Gio Linh, Vĩnh Hòa-Vĩnh Linh; liên kết với Công ty cổ phần Nafoods Tây Bắc liên kết sản xuất và bao tiêu sản phẩm chanh leo với quy mô 12 ha ở Hướng Hóa...

Ngoài ra, tập trung đẩy mạnh cơ giới hóa vào sản xuất nhằm giảm chi phí sản xuất và giải phóng sức lao động cho người nông dân thông qua việc ứng dụng máy móc tự động hóa vào các khâu gieo trồng, chăm sóc, thu hoạch, chế biến sản phẩm. Đến nay, đối với cây lúa và cây màu có hơn 90% diện tích làm đất bằng máy, hơn 60% diện tích lúa được áp dụng sạ hàng và 90% thu hoạch bằng máy. Ứng dụng thành công nhiều công nghệ, máy móc mới vào sản xuất như: Máy cấy cải tiến với công suất cấy 4ha/ ngày; máy gieo lạc ngô với công suất 1 - 2 ha/ngày...

Thêm vào đó, ngành cũng đã tập trung chỉ đạo việc ứng dụng khoa học công nghệ vào công tác dự tính, dự báo như hệ thống bẫy đèn năng lượng mặt trời, công nghệ phân tích nhanh bệnh lùn sọc đen... nhờ vậy đã dự báo kịp thời, chỉ đạo phòng trừ sâu bệnh triệt để, góp phần bảo vệ an toàn sản xuất.

- Để không ngừng nâng cao hơn nữa giá trị sản xuất nông nghiệp cần có thị trường tiêu thụ sản phẩm tốt, cũng như đẩy mạnh công nghệ chế biến sau thu hoạch các sản phẩm nông nghiệp. Hai nội dung này có lẽ Quảng Trị đang gặp rất nhiều khó khăn, ông có thể chia sẻ để cùng nhau tìm hướng giải quyết?

- Sản xuất phải gắn với thị trường, công nghệ chế biến sản phẩm là chìa khóa quyết định thành công của sản phẩm khi tiếp cận thị trường. Đây là bài toán khó của ngành Nông nghiệp Quảng Trị nói riêng và Việt Nam nói chung. Với định hướng tập trung phát triển vào 6 cây, 2 con chủ lực, ngành NN- PTNT Quảng Trị xác định với nguồn lực đầu tư còn hạn chế, để thay đổi và ứng dụng nhanh công nghệ chế biến sau thu hoạch vào sản xuất thì yếu tố tiên quyết là phải thúc đẩy được các mô hình liên kết “4 nhà”; “5 nhà”; “6 nhà”, trong đó xác định nhà DN đóng vai trò then chốt. Vì vậy, ngành tích cực xúc tiến, mời gọi các DN/nhà đầu tư chiến lược vào đầu tư, hợp tác liên kết theo chuỗi từ sản xuất đến chế biến. Đồng thời, ngành cũng đã xây dựng các cơ chế, chính sách khuyến khích các DN, các nhà sản xuất đầu tư đổi mới công nghệ, tập trung chế biến sâu, gắn việc phát triển vùng nguyên liệu với hệ thống các nhà máy chế biến quy mô, hiện đại (như hệ thống nhà máy chế biến gỗ gắn với vùng trồng rừng nguyên liệu, hệ thống nhà máy chế biến cà phê, cao su gắn với vùng nguyên liệu cà phê, cao su...).

Tuy nhiên, có thể nói rằng công nghệ chế biến của Quảng Trị vẫn đang tập trung sản xuất ra các sản phẩm xuất khẩu thô, là nguyên liệu cho các nhà máy khác, ít có nhà máy được đầu tư bài bản, sản xuất ra các sản phẩm tiêu dùng trực tiếp vì vậy giá trị gia tăng mang lại chưa nhiều; định hướng về thị trường sản xuất chưa được người nông dân và các địa phương chú trọng; sản xuất chưa có tính chiến lược dài hạn.

Trong thời gian tới để giải quyết được vấn đề này cần có sự quan tâm đồng hành của hệ thống chính trị, của các nhà DN, địa phương, nông dân, trong đó cần có sự tập trung ưu tiên hỗ trợ cho các DN đổi mới công nghệ chế biến. Các Bộ ngành Trung ương cần tiếp tục quan tâm hỗ trợ tỉnh Quảng Trị có thêm nguồn lực để đầu tư vào ứng dụng công nghệ chế biến sau thu hoạch đối với các sản phẩm chủ lực của tỉnh; tiếp tục rà soát, hoàn thiện quy hoạch phát triển từng cây trồng, vật nuôi chủ lực, quy hoạch vùng sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao đến năm 2020, tầm nhìn 2025 gắn sản xuất với chế biến và tiêu thụ.

Quan tâm hơn nữa việc nghiên cứu xây dựng chính sách khuyến khích hỗ trợ thu hút DN, kinh tế tư nhân trong nông nghiệp nông thôn. Đổi mới phương thức quản lí, đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực quản lí Nhà nước đối với nông nghiệp, nông dân, nông thôn, tạo cơ chế và điều kiện thuận lợi cho DN và nông dân trong việc thực hiện đầu tư vào sản xuất nông nghiệp, nhất là tích tụ ruộng đất thực hiện các dự án theo chuỗi giá trị, dự án nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ, xúc tiến thương mại cho các sản phẩm nông sản của tỉnh, đồng thời quy hoạch, bố trí mặt bằng cũng như huy động các nguồn lực để xây dựng các kho, xưởng bảo quản chế biến nông sản trên địa bàn.

- Xin cảm ơn ông!

Tuệ Linh (thực hiện)