Xanh mãi với đại ngàn
(QT) - Trong ngôi nhà sàn nhỏ treo rất nhiều huân, huy chương do Đảng và Nhà nước trao tặng vì những cống hiến trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, hai vợ chồng cựu chiến binh Hồ Văn Coòng và Hồ Thị Xum ở bản 3, xã Vĩnh Ô, huyện Vĩnh Linh (Quảng Trị) sống với nhau thật hạnh phúc. Niềm hạnh phúc của họ là mỗi ngày vẫn được sống và lao động để góp chút sức mình vào sự phát triển của quê hương. Tuổi xuân theo Đảng Sinh ra và lớn lên khi đất nước đang chiến tranh, cũng như bao người dân Vân ...

Xanh mãi với đại ngàn

(QT) - Trong ngôi nhà sàn nhỏ treo rất nhiều huân, huy chương do Đảng và Nhà nước trao tặng vì những cống hiến trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, hai vợ chồng cựu chiến binh Hồ Văn Coòng và Hồ Thị Xum ở bản 3, xã Vĩnh Ô, huyện Vĩnh Linh (Quảng Trị) sống với nhau thật hạnh phúc. Niềm hạnh phúc của họ là mỗi ngày vẫn được sống và lao động để góp chút sức mình vào sự phát triển của quê hương. Tuổi xuân theo Đảng Sinh ra và lớn lên khi đất nước đang chiến tranh, cũng như bao người dân Vân kiều nơi núi rừng Vĩnh Ô, cuộc sống của ông bà đều nghèo khó và cơ cực. Trong những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước, theo lời kêu gọi của Đảng, Bác Hồ, nhân dân Vĩnh Ô nhất tề đứng lên đánh giặc giữ nước. Ông Coòng và bà Xum lúc đó tuổi mới đôi mươi cũng hăng hái tham gia vào cuộc kháng chiến của dân tộc. Trong những năm tháng chiến đấu trên chiến trường ác liệt, hai ông bà đã đem lòng yêu thương nhau rồi nên duyên chồng vợ.

Những tấm huy chương là niềm tự hào của ông Coòng và bà Xum.

Sau khi kết hôn họ vẫn hăng say tham gia chiến đấu và phục vụ chiến đấu, ông được bà con tín nhiệm bầu làm công an thôn còn bà là dân công hỏa tuyến. Khắp các chiến trường ở miền tây Quảng Trị ngày ấy không nơi nào đoàn dân công hỏa tuyến của bà chưa từng qua. Trong hai năm 1971, 1972 tại mặt trận Đường 9 Nam Lào, ông bà là hai trong số những người tham gia liên tục và nhiều lần được cấp trên tuyên dương. Ông Coòng kể lại: “Năm 1957 chúng tôi kết hôn khi cuộc chiến tranh đang ngày một quyết liệt. Lúc đó vợ tôi là dân công hỏa tuyến có nhiệm vụ vận chuyển lương thực, vũ khí, đạn dược, thuốc men. Có những chuyến đi dài 2 đến 3 tháng trời, nhiều tháng liền vợ chồng chẳng thấy mặt nhau. Nhưng vì niềm tin chiến thắng chúng tôi sẵn sàng hy sinh tất cả”. Không chỉ tham gia chiến đấu và phục vụ chiến đấu, ông bà còn nhận nhiệm vụ nuôi giấu bộ đội trong nhà mình. Cuộc sống người Vĩnh Ô ngày đó rất khổ, sắn là lương thực chủ lực. Ngoài thời gian tham gia dân công, bà Xum còn dành thời gian để trồng nhiều sắn trên nương. Chính nhờ nương sắn ấy mà những chiến sĩ bà nuôi giấu trong nhà không bữa nào phải chịu đói. Đặc biệt trong những năm 1967 – 1969 giặc Mỹ rải chất độc hóa học và thả bom na pan hủy diệt khắp các cánh rừng phía tây Quảng Trị, bộ đội không thể sống trong rừng, những cây sắn bà trồng cũng bị chết, thế nhưng dù trong bất cứ hoàn cảnh khó khăn nào bà vẫn cố gắng đảm bảo bữa ăn cho bộ đội. Khi nhắc lại chuyện này, bà Xum nhẹ nhàng nói: “Người dân Vân kiều theo Đảng, theo Bác Hồ thì làm sao mà để bộ đội Bác Hồ chịu đói được. Dù khó khăn đến mấy cũng phải che chở, bảo vệ bộ đội để bộ đội đánh giặc giải phóng đất nước”. Chính những thành tích trong chiến đấu và phục vụ chiến đấu đó mà năm 1968 cả hai ông bà vinh dự được kết nạp vào hàng ngũ của Đảng. Với họ đây là động lực, là niềm tin để sống và cống hiến nhiều hơn cho đất nước. Những “cây đại thụ” của núi rừng Vĩnh Ô

Ông Coòng nói với chúng tôi rằng bà con Vân kiều ở Vĩnh Ô từ bao đời nay sống hiền lành nhưng rất kiên cường như những cây gỗ xanh tươi, vững chãi ở trong rừng. Và có lẽ những người tiếp xúc với ông bà sẽ nhận thấy tâm huyết và tấm lòng của ông Coòng, bà Xum với cuộc đời cũng luôn xanh như những cây rừng nơi đại ngàn hùng vĩ này vậy.

Ngày đất nước giải phóng, ông bà lại trở về với những nương sắn nương ngô nơi bản làng thân thuộc. Ông Coòng với vai trò là Bí thư chi bộ, chủ nhiệm hợp tác xã bản 3 đã vận động bà con dần bỏ lối sống du canh du cư, dựng nhà kiên cố để sống định cư, tập trung phát triển kinh tế bền vững. Trong nhiệm vụ mới, ông bà lại là những người đi tiên phong trong phong trào khôi phục sản xuất chống đói ở địa phương. Những năm sau giải phóng gia đình ông bà là một trong những hộ đóng góp nhiều sắn và ngô nhất để cứu đói cho bà con xã Vĩnh Ô. Sau 8 năm ở bản 3, năm 1981 khi địa phương có chủ trương vận động nhân dân lên phát rừng làm nương mới ở bản 8 (bản Mít) ông bà lại là một trong những hộ tiên phong. Ở bản 8, bên cạnh trồng lúa nương, ngô, sắn làm lương thực, ông bà còn tận dụng nguồn mây tre có sẵn trong rừng để đan các dụng cụ chứa đựng, phên liếp. Những thứ đan được một phần ông đem cho những gia đình mới chuyển đến, phần thì ông bán cho những khách hàng từ Đakrông sang. Sau khi ổn định đời sống, ông bà lại vận động bà con cùng nhau trồng rừng, trồng các loại cây ăn quả như chuối, mít. Bà con Vĩnh Ô vốn chỉ sản xuất lúa nương hiệu quả kinh tế rất thấp bởi vậy sau khi được cán bộ khuyến nông, khuyến lâm huyện phổ biến kỹ thuật trồng lúa nước và chăn nuôi gia súc, gia cầm, ông lại vận động bà con cùng làm. Đặc biệt ông đã cùng bà con đào được một mương dẫn nước vào ruộng để sản xuất lúa nước. Đây là việc mà trước đó chưa có ai ở Vĩnh Ô từng làm. Nhờ chăm chỉ làm việc, ông bà đã trồng được hơn 3 ha rừng, 3 sào ruộng nước và một vườn mít lấy gỗ gần 100 gốc. Chính sự quan tâm, đùm bọc mọi người mà lúc nào ông bà cũng được bà con yêu mến. Sau hơn 20 năm sống và xây dựng kinh tế ở bản 8, vào tuổi xế chiều, ông bà giao lại người cháu họ toàn bộ những ruộng đất đã khai thác được ở bản 8 rồi chuyển ra sống ở bản 3, gần trung tâm xã để có điều kiện chăm sóc sức khỏe. Năm 2003, ngôi nhà tình nghĩa địa phương xây dựng cho ông bà hoàn tất, ông bà đã có thể yên tâm để an dưỡng tuổi già. Về nơi ở mới, ông vẫn giữ thói quen làm việc, bởi vậy mà hiện nay trong vườn nhà ông bà ngoài các loại bưởi, vải, xoài, chuối còn có hai ao cá thả nuôi các loại chép, trắm, rô phi. Những sản phẩm có được trong vườn cũng đủ giúp ông bà có thêm đồng ra đồng vào và thỉnh thoảng mời bà con lối xóm. Ông Coòng năm nay đã 77 tuổi còn bà Xum cũng đã ở tuổi 74. Hai vợ chồng sớm tối nương tựa vào nhau và sống trong sự thương yêu, kính trọng của bà con lối xóm. Chất độc hóa học của giặc Mỹ trong chiến tranh đã tước đi quyền làm mẹ của bà sau hai lần sinh nở nhưng trong ngôi nhà của họ không hề thiếu vắng tiếng nói, tiếng cười của trẻ thơ. Bởi như lời bà con lối xóm vẫn nói “Họ là những người không có con ruột nhưng rất nhiều con nuôi bởi khắp núi rừng Vĩnh Ô này ai ai cũng hiểu lòng tốt của họ và luôn xem họ như người thân trong nhà vậy”. Ông Coòng nói với chúng tôi rằng bà con Vân kiều ở Vĩnh Ô từ bao đời nay sống hiền lành nhưng rất kiên cường như những cây gỗ xanh tươi, vững chãi ở trong rừng. Và có lẽ những người tiếp xúc với ông bà sẽ nhận thấy tâm huyết và tấm lòng của ông Coòng, bà Xum với cuộc đời cũng luôn xanh như những cây rừng nơi đại ngàn hùng vĩ này vậy. Bài, ảnh: NGUYỄN LỆ XUÂN