Phát huy sức mạnh tổng hợp, phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế cao hơn năm 2008
Đồng chí Lê Hữu Phúc, Chủ tịch UBND tỉnh trình bày báo cáo tại kỳ họp thứ 15- HĐND tỉnh khóa V

Phát huy sức mạnh tổng hợp, phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế cao hơn năm 2008

Đồng chí Lê Hữu Phúc, Chủ tịch UBND tỉnh trình bày báo cáo tại kỳ họp thứ 15- HĐND tỉnh khóa V

(Báo cáo tóm tắt tình hình kinh tế - xã hội năm 2008 và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2009 do đồng chí Lê Hữu Phúc, Chủ tịch UBND tỉnh trình bày tại kỳ họp thứ 15- HĐND tỉnh Quảng Trị - khóa V)

Bước vào thực hiện kế hoạch năm 2008, tình hình kinh tế thế giới và trong nước có những biến động phức tạp: Khủng hoảng kinh tế và tài chính thế giới đã tác động mạnh mẽ đến nền kinh tế toàn cầu và nằm ngoài khả năng dự báo của các nhà kinh tế trong và ngoài nước.

Ở trong nước, tình hình lạm phát tăng cao; thị trường bị thu hẹp, đầu tư giảm sút, xuất khẩu và du lịch gặp khó khăn; tăng trưởng kinh tế của cả nước phải điều chỉnh giảm từ 8,5-9% xuống còn 7% nhưng kết quả chỉ đạt 6,7%. Những khó khăn của nền kinh tế thế giới và trong nước đã ảnh hưởng tiêu cực, trực tiếp đến tình hình phát triển KT-XH của tỉnh ta. Bên cạnh đó, ảnh hưởng của thiên tai: rét đậm, rét hại kéo dài; dịch bệnh diễn biến phức tạp; thiệt hại của cơn bão số 7, số 8, lũ lụt; đầu tư của tư nhân và doanh nghiệp giảm sút... đã tăng thêm khó khăn cho nền kinh tế. Trước tình hình đó, UBND tỉnh đã trình HĐND tỉnh và được HĐND tỉnh thống nhất điều chỉnh giảm chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế (GDP) từ 12,5- 13% xuống còn 10- 11%. Thực hiện Nghị quyết của HĐND tỉnh, UBND tỉnh hoàn thành việc giao chỉ tiêu kế hoạch ngân sách và đầu tư cho các ngành, địa phương trước ngày 25/12/2007; đồng thời tập trung chỉ đạo các ngành, địa phương tích cực triển khai thực hiện mục tiêu và nhiệm vụ kế hoạch phát triển KT-XH của tỉnh năm 2008.

Với tinh thần chủ động và quyết tâm cao của các cấp uỷ Đảng, chính quyền, Mặt trận, các đoàn thể và quần chúng nhân dân, kế thừa và phát huy những thành quả về tăng trưởng và đầu tư của những năm trước; tổ chức thực hiện có kết quả 8 nhóm giải pháp của Chính phủ về điều hành phát triển kinh tế và chống lạm phát cùng nhiều giải pháp, biện pháp, chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất, bảo đảm an sinh xã hội của địa phương. Đặc biệt là tập trung chỉ đạo quyết liệt trong sản xuất nông nghiệp, đầu tư; giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân... chúng ta đã vượt qua khó khăn và đạt được những kết quả quan trọng về tăng trưởng kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội và góp phần kiềm chế lạm phát theo chủ trương của Chính phủ. Trong bối cảnh tỉnh ta còn có nhiều khó khăn, thách thức nhưng tăng trưởng kinh tế vẫn đạt khá cao, thu ngân sách nhà nước và huy động vốn đầu tư phát triển tăng khá. Các chương trình đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội được quan tâm chỉ đạo thực hiện với những giải pháp tích cực. Các biện pháp kiềm chế lạm phát được thực hiện có hiệu quả và bước đầu góp phần kiềm chế lạm phát. Đời sống của nhân dân cơ bản giữ được ổn định, các chính sách hỗ trợ đảm bảo an sinh xã hội được triển khai thực hiện kịp thời và đã góp phần giải quyết một phần khó khăn cho nhân dân. Các lĩnh vực: giáo dục - đào tạo, y tế, văn hoá, thông tin, bảo vệ môi trường được quan tâm phát triển. Cải cách hành chính, thực hành tiết kiệm chống lãng phí, phòng chống tham nhũng tiếp tục được quan tâm thực hiện. An ninh chính trị và trật tự xã hội được giữ vững. Tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong tỉnh (GDP) cả năm ước đạt 10,3% so với năm 2007 (kế hoạch là 10-11%), trong đó: Nông - lâm - ngư nghiệp tăng 2,3% (kế hoạch là 2,5-3%); Công nghiệp - xây dựng tăng 22,5% (kế hoạch là 23%); Dịch vụ tăng 7% (kế hoạch là 7%). Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội ước đạt: 3.300 tỷ đồng (kế hoạch từ: 3.200 - 3.500 tỷ đồng). Tổng thu ngân sách trên địa bàn ước đạt: 671,24/ 637,76 tỷ đồng, vượt 5,2% kế hoạch; trong đó thu nội địa: 445,24/ 437,76 tỷ đồng, vượt 1,7% kế hoạch; thu từ hoạt động xuất nhập khẩu: 226/ 200 tỷ đồng, vượt 13% kế hoạch. Tổng chi ngân sách địa phương ước đạt 2.402,4/1.842,5 tỷ đồng, vượt 30,4% kế hoạch (trong đó: chi đầu tư phát triển do địa phương quản lý đạt 1.287,775 tỷ đồng, vượt 53,1% kế hoạch). Kim ngạch xuất khẩu ước đạt 35/ 35 triệu USD, đạt 100% kế hoạch. Kim ngạch nhập khẩu ước đạt 40,7/ 30 triệu USD, đạt 135,5% kế hoạch. Sản lượng lương thực có hạt: 22,6/ 22 vạn tấn, đạt 102,8% kế hoạch. Diện tích trồng mới cây công nghiệp dài ngày ước đạt: 1.100/ 1.300 ha, bằng 84,6% kế hoạch. Trồng mới rừng tập trung ước đạt: 4.500/4.500 ha, bằng 100% kế hoạch. Sản lượng thuỷ hải sản ước đạt: 22.250/21.000 tấn, bằng 106% kế hoạch. Các chỉ tiêu phát triển xã hội: Tỷ lệ xã, phường, thị trấn đạt chuẩn phổ cập THCS là 99,3% (kế hoạch là 100%). Tạo việc làm mới ước đạt 8.500 lao động (kế hoạch trên 8.500 lao động). Tỷ lệ lao động qua đào tạo so với tổng số lao động ước đạt 28,5% (kế hoạch là 28,5%); trong đó đào tạo nghề 19,7% (kế hoạch là 20%). Mức giảm tỷ suất sinh ước đạt 0,62%o, (kế hoạch là trên 0,6%o). Giảm tỷ lệ hộ nghèo xuống còn 17,8% (kế hoạch là 20%). Giảm tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng xuống còn: 21% (kế hoạch là dưới 21,3%). Chỉ tiêu về môi trường: Tỷ lệ độ che phủ rừng đến cuối năm 2008: 44% (kế hoạch trên 43,2%). Tỷ lệ dân số thành thị sử dụng nước sạch 74% (kế hoạch trên 72,6%). Tỷ lệ dân số nông thôn sử dụng nước hợp vệ sinh 75% * (kế hoạch trên 65,3%). So với Nghị quyết của HĐND tỉnh về nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2008; hầu hết các chỉ tiêu cơ bản đạt khá và vượt kế hoạch; chỉ có một chỉ tiêu chưa đạt so với kế hoạch (Diện tích trồng mới cây công nghiệp dài ngày ước đạt 84,6% kế hoạch do dự án Đa dạng hoá nông nghiệp giai đoạn 2 chưa triển khai thực hiện). Những kết quả nổi bật trong năm 2008: Một là , mặc dù gặp nhiều khó khăn nhưng tốc độ tăng trưởng kinh tế (tính theo GDP) đạt khá cao: 10,3%. Trong điều kiện kinh tế cả nước có mức tăng trưởng thấp (GDP cả nước tăng 6,7%) thì việc duy trì được tốc độ tăng trưởng của tỉnh là khá cao, đây là một sự nỗ lực rất lớn của cán bộ, nhân dân và các doanh nghiệp trong toàn tỉnh. Tổng sản phẩm trong tỉnh (GDP) theo giá hiện hành đạt 7.095 tỷ đồng; bình quân đầu người đạt 11,2 triệu đồng (tương đương 665 USD). Cơ cấu kinh tế ngành tiếp tục chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng khu vực công nghiệp - xây dựng, giảm tỷ trọng khu vực nông - lâm - ngư nghiệp. Hai là , lĩnh vực nông nghiệp tuy có một số khó khăn nhưng sản xuất lương thực đã vượt qua được những trở ngại do thiên tai, dịch bệnh; sản lượng lương thực cả năm đạt trên 22,6 vạn tấn, tăng 2,8% so với năm 2007, vượt kế hoạch đề ra và là năm có sản lượng lương thực cao nhất từ trước đến nay. Ba là , thu ngân sách trên địa bàn và huy động vốn đầu tư phát triển xã hội tăng khá. Thu ngân sách trên địa bàn ước tăng 8,5% so với năm 2007 và đạt 105,2% kế hoạch. Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội ước tăng 12,3% so với năm 2007 và đạt kế hoạch. Đặc biệt, UBND tỉnh cùng với các ngành, các cấp đã nỗ lực cố gắng, tích cực tranh thủ sự quan tâm, giúp đỡ và ủng hộ của Chính phủ và các Bộ ngành TƯ để tăng cường nguồn lực; nhờ vậy vốn đầu tư phát triển ngân sách địa phương quản lý tăng 53,1% so với kế hoạch đầu năm. Bốn là , nhiều công trình quan trọng đã hoàn thành và đưa vào khai thác. Nguồn vốn đầu tư phát triển cho lĩnh vực giao thông, thủy lợi, y tế, giáo dục đã được bổ sung đáng kể bằng nguồn vốn trái phiếu Chính phủ sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển trong thời gian tới. Đặc biệt là Thủ tướng Chính phủ đã đồng ý cho bổ sung Cảng biển nước sâu Mỹ Thuỷ vào quy hoạch hệ thống cảng biển Việt Nam đến năm 2020, đồng thời giao các Bộ xem xét đưa vào quy hoạch Khu kinh tế biển Đông-Nam Quảng Trị. Năm là, hoạt động xúc tiến đầu tư, phát triển doanh nghiệp tiếp tục đạt được nhiều tiến bộ so với các năm vừa qua. Trong 10 tháng đầu năm, đã cấp giấy chứng nhận đầu tư cho 36 dự án với tổng số vốn đăng ký trên 5.200 tỷ đồng. Đã hoàn thành kế hoạch sắp xếp đổi mới doanh nghiệp nhà nước của tỉnh theo kế hoạch được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Việc áp dụng cơ chế “một cửa liên thông” trong cấp giấy chứng nhận ĐKKD, giấy phép khắc dấu, đăng ký mã số thuế tiếp tục phát huy hiệu quả, đã rút ngắn gần 1/2 thời gian giải quyết các thủ tục theo quy định, tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân và các doanh nghiệp hoạt động sản xuất, kinh doanh. Sáu là, những biện pháp và chính sách bảo đảm an sinh xã hội đã khẳng định tính ưu việt trong đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và vai trò của nhà nước. Một số lĩnh vực xã hội, môi trường đạt được những kết quả tích cực, đặc biệt là trong công tác xoá đói giảm nghèo, giải quyết việc làm, giảm tỷ suất sinh, giảm tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng, tăng độ che phủ rừng, giải quyết vấn đề nước sinh hoạt ở thành thị và nông thôn.... Tỉnh đã tổ chức triển khai thực hiện có hiệu quả nhiều chính sách hỗ trợ đảm bảo an sinh xã hội, trong đó: đã hoàn thành mục tiêu đề án xây dựng nhà ở cho đồng bào dân tộc thiểu số có hoàn cảnh khó khăn theo Nghị quyết 9G của HĐND tỉnh và Chương trình 134 của Chính phủ; tiếp tục triển khai thực hiện tốt đề án xoá nhà dột nát, tạm bợ cho hộ nghèo giai đoạn 3. Bảy là , công tác chỉ đạo, điều hành của tỉnh được đổi mới tích cực, tập trung vào các mục tiêu ưu tiên, trọng tâm, trọng điểm mà kế hoạch đã đề ra và 8 nhóm giải pháp của Chính phủ nhằm kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và đảm bảo an sinh xã hội. Trong năm 2008, UBND tỉnh đã trình HĐND tỉnh ban hành 11 Nghị quyết chuyên đề, trên cơ sở đó, UBND tỉnh đã có kế hoạch tổ chức thực hiện cụ thể, tạo sự chuyển biến trong đời sống kinh tế - xã hội của tỉnh. Trong đó, nổi bật nhất là công tác chỉ đạo, điều hành khắc phục khó khăn để đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, bảo đảm an sinh xã hội; giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân. Đã hoàn thành việc sắp xếp, tổ chức lại các cơ quan chuyên môn trực thuộc UBND tỉnh, UBND huyện; hoàn thành việc mở rộng địa giới hành chính thị xã Quảng Trị. Tai nạn giao thông được kiềm chế. Tám là , Tình hình chính trị, xã hội và đời sống của nhân dân ổn định; quốc phòng - an ninh tiếp tục được giữ vững, tạo môi trường thuận lợi để phát triển kinh tế - xã hội. Những hạn chế, khó khăn: 1. Trong quá trình tổ chức thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2008, tỉnh đã gặp phải những khó khăn, trở ngại rất lớn do điều kiện khách quan mang lại, đó là: Khủng hoảng kinh tế thế giới cùng với những khó khăn trong nước, lạm phát tăng cao đã tác động tiêu cực đến sự phát triển kinh tế ở trong tỉnh, nhất là lĩnh vực sản xuất công nghiệp, dịch vụ, du lịch, xuất khẩu hàng nông sản. Mặt khác, ảnh hưởng của thiên tai: rét đậm, rét hại kéo dài, bão lụt liên tiếp xảy ra, dịch bệnh ở cây trồng, vật nuôi gia tăng làm giảm hiệu quả sản xuất nông nghiệp.

Trên công trường thi công cầu Cửa Việt. Ảnh: Trà Thiết
2. Những hạn chế, yếu kém mang tính chủ quan, đó là: - Mặc dù tỉnh đã có nhiều biện pháp tích cực chỉ đạo đẩy mạnh phát triển sản xuất nông nghiệp nhưng vẫn còn bộc lộ tồn tại: Một số địa phương chỉ đạo sản xuất vụ Đông Xuân chưa sát đúng lịch thời vụ đã đề ra; chưa kịp thời phát hiện sớm dịch bệnh (như dịch bệnh tai xanh ở lợn) để đề ra biện pháp ngăn chặn đạt hiệu quả cao. Tốc độ tăng lĩnh vực dịch vụ, du lịch chậm, tỷ trọng dịch vụ giảm là chưa phù hợp với định hướng phát triển của tỉnh. - Xã hội hoá các lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hoá, thể dục thể thao, khoa học công nghệ đã được triển khai thực hiện nhưng vẫn còn chậm. Chất lượng giáo dục phổ thông tuy có nhiều tiến bộ nhưng chưa đồng đều, nhất là ở miền núi. Năng lực đào tạo nghề còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Hạ tầng y tế còn thấp kém, nhất là tuyến huyện và cơ sở; chất lượng khám chữa bệnh, thái độ phục vụ nhân dân của một số cán bộ y tế chưa đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của nhân dân; nguy cơ bùng phát, lây lan một số dịch bệnh nguy hiểm còn cao; ý thức của người dân về vệ sinh an toàn thực phẩm còn hạn chế... - Quản lý đầu tư còn nhiều yếu kém, nhất là chất lượng của hoạt động tư vấn, năng lực quản lý của một số Ban Quản lý dự án và Chủ đầu tư cùng với sự thiếu đồng bộ của cơ chế, chính sách đã hạn chế rất nhiều đến kết quả hoạt động đầu tư. Một số nguồn vốn giải ngân chậm, nhất là trái phiếu Chính phủ. Kết quả cải cách thủ tục hành chính ở một số khâu còn hạn chế và thiếu đồng bộ, đáng chú ý là trong lĩnh vực thu hút đầu tư. - Tinh thần, thái độ và trách nhiệm phục vụ nhân dân của một bộ phận cán bộ chưa được cải thiện; tính chuyên nghiệp của đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước còn yếu. Việc ứng dụng công nghệ tin học vào quản lý, điều hành nhà nước chưa mạnh; công tác phòng chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí đạt được kết quả bước đầu, cần phải được tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa. - Tình hình tội phạm có chiều hướng gia tăng và diễn biến phức tạp, đối tượng phạm tội chủ yếu là thanh thiếu niên, người không có nghề nghiệp; tình hình buôn bán và nghiện hút ma tuý đang gây băn khoăn, lo lắng trong nhân dân. Bối cảnh thực hiện Kế hoạch phát triển KT-XH năm 2009: Năm 2009, nền kinh tế tỉnh ta tiếp tục đứng trước nhiều khó khăn thách thức cả khách quan lẫn chủ quan. Cuộc khủng hoảng kinh tế ở Mỹ lan nhanh sang các nước phát triển và các nước trong khu vực gây nên khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu. Mặc dù các nước đang tập trung vào việc giải quyết khủng hoảng và tăng trưởng kinh tế nhưng tình hình vẫn đang hết sức phức tạp.

Dự báo của các tổ chức trong và ngoài nước còn có ý kiến khác nhau nhưng đều có một nhận định chung là kinh tế thế giới năm 2009 còn gặp nhiều khó khăn, thậm chí còn khó khăn hơn năm 2008. Qua đó cho thấy rằng trong năm 2009, kinh tế thế giới còn nhiều rủi ro, khó lường; những xung đột khu vực, cạnh tranh ảnh hưởng và tranh giành lợi ích của các khối, các nước lớn... tiếp tục diễn ra gay gắt. Ở trong nước, tuy lạm phát bước đầu đã được kiềm chế và đang có biểu hiện giảm phát, Chính phủ cũng đã có kế hoạch và nhiều giải pháp tiếp tục ngăn chặn lạm phát bùng phát trở lại đồng thời kích cầu xây dựng, đẩy mạnh sản xuất để phát triển kinh tế nhưng cũng chỉ xác định tăng trưởng kinh tế chỉ đạt 6,5% (thấp hơn mức tăng trưởng của năm 2008). Đối với Quảng Trị, bên cạnh ảnh hưởng tiêu cực từ những khó khăn chung của cả nước và khủng hoảng kinh tế, tài chính của thế giới; chúng ta còn phải chịu nhiều bất lợi khác, đó là: Quy mô của nền kinh tế còn nhỏ bé, sức cạnh tranh của nền kinh tế và các doanh nghiệp còn thấp; môi trường thu hút đầu tư không thuận lợi; đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn; Hệ thống kết cấu hạ tầng KT-XH chưa đồng bộ; chất lượng nguồn nhân lực còn thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu và nhiệm vụ phát triển.

Năng lực của đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước còn hạn chế. Cải cách hành chính còn phải tiếp tục quan tâm nhiều hơn. Những biến động về thời tiết, khí hậu khắc nghiệt, khó lường; dịch bệnh còn nhiều tiềm ẩn nguy hiểm và phức tạp... là những yếu tố ảnh hưởng bất lợi đến kế hoạch phát triển KT-XH trong năm 2009, cần phải được theo dõi, nghiên cứu để chủ động xử lý các tác động tiêu cực đối với nền kinh tế và an sinh xã hội. Mục tiêu và các chỉ tiêu chủ yếu: Có 5 mục tiêu cơ bản. - Huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực, phát huy sức mạnh tổng hợp của các thành phần kinh tế, các lực lượng xã hội phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế cao hơn năm 2008. - Tạo điều kiện thuận lợi để hỗ trợ các doanh nghiệp, nhà đầu tư đẩy mạnh đầu tư, phát triển sản xuất và nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. - Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; giải quyết tốt các vấn đề xã hội, bảo đảm an sinh xã hội. - Nâng cao hiệu lực và hiệu quả hoạt động của bộ máy chính quyền các cấp; đẩy mạnh cải cách hành chính; thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, chống tham nhũng có hiệu quả. - Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển KT-XH với quốc phòng - an ninh; giữ vững ổn định chính trị và an toàn xã hội. Các chỉ tiêu chủ yếu: Các chỉ tiêu kinh tế: - Tổng sản phẩm trong tỉnh (GDP) tăng 11-12% so với năm 2008, trong đó: Nông - lâm - ngư nghiệp tăng: 4-4,5%, Công nghiệp - xây dựng tăng: 22-23%, Dịch vụ tăng: 7,5-8%. - Kim ngạch xuất khẩu đạt 42 triệu USD, tăng 20% so với năm 2008. - Kim ngạch nhập khẩu đạt 37 triệu USD. - Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội khoảng 3.700 – 3.800 tỷ đồng, tăng 13,6% so với năm 2008. - Tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn: 772 tỷ đồng; trong đó thu nội địa: 507 tỷ đồng, tăng 14% so với năm 2008; thu thuế xuất nhập khẩu: 265 tỷ đồng, tăng 17% so với năm 2008. - Tổng chi ngân sách địa phương: 2.170,7 tỷ đồng. - Sản lượng lương thực có hạt trên 22,3 vạn tấn. - Diện tích trồng mới cây công nghiệp dài ngày: 1.100 ha. - Trồng mới rừng tập trung: 4.500 ha. - Sản lượng thuỷ hải sản: 23.000 tấn. Các chỉ tiêu xã hội: - Phổ cập và duy trì vững chắc kết quả phổ cập THCS cho 100% xã, phường, thị trấn. - Tạo việc làm mới cho trên 8.500 lao động. - Tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 30%, trong đó: đào tạo nghề 21,5% - Giảm tỷ suất sinh trên 0,6%0 - Giảm tỷ lệ hộ nghèo từ 2,5% trở lên - Giảm tỷ lệ trẻ em tuổi suy dinh dưỡng dưới 5 tuổi xuống dưới 20,7%. Các chỉ tiêu môi trường: - Tỷ lệ độ che phủ rừng đến cuối năm 2008 đạt trên 44,2%. - Tỷ lệ dân cư thành thị sử dụng nước sạch trên 77,5%. - Tỷ lệ dân cư nông thôn sử dụng nước hợp vệ sinh trên 80%. Một số nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu: Về phát triển kinh tế: - Đẩy mạnh phát triển sản xuất nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá để ổn định và nâng cao đời sống cho nhân dân. + Chỉ đạo chặt chẽ việc tổ chức sản xuất lương thực, cây công nghiệp, chăn nuôi, nuôi trồng và khai thác thuỷ hải sản gắn với công tác phòng trừ dịch bệnh và bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm, đẩy mạnh trồng rừng và kinh doanh nghề rừng. + Triển khai có hiệu quả Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 (khoá X) về nông nghiệp, nông dân, nông thôn của Tỉnh uỷ. Trong đó trọng tâm là: Rà soát, bổ sung, điều chỉnh các loại quy hoạch: đất đai, quy hoạch ngành, sản phẩm; phối hợp nhiều nguồn vốn để tăng cường kết cấu hạ tầng nông thôn; đẩy mạnh các hoạt động khuyến nông, lâm, công, chuyển giao tiến bộ khoa học công nghệ và các chính sách ưu đãi khác cho nông dân. - Sản xuất công nghiệp và xây dựng: + Tăng cường công tác nghiên cứu thông tin, mở rộng thị trường để hướng dẫn và khuyến khích các cơ sở sản xuất công nghiệp đã có đẩy mạnh phát triển sản xuất, đặc biệt đối với các sản phẩm xuất khẩu chủ lực. + Đẩy nhanh tiến độ xây dựng kết cấu hạ tầng kết hợp thu hút đầu tư vào các khu công nghiệp, các cụm công nghiệp, làng nghề. + Hoàn thành xây dựng quy hoạch Cảng nước sâu Mỹ Thuỷ và Đề án xây dựng Khu kinh tế Đông - Nam Quảng Trị để trình các Bộ, ngành TƯ và Chính phủ đưa vào hệ thống quy hoạch cảng biển và Khu kinh tế của cả nước. Thương mại, dịch vụ: + Tiếp tục cải tiến mạnh mẽ thủ tục, cơ chế phối hợp giữa các cơ quan liên quan nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho lưu thông hàng hoá tại Khu kinh tế thương mại đặc biệt Lao Bảo và trên tuyến hành lang kinh tế Đông – Tây; Đồng thời kết hợp các biện pháp quản lý thị trường, chống đầu cơ, buôn lậu, buôn bán hàng giả, trốn thuế. + Chỉ đạo đẩy mạnh kinh doanh hàng xuất khẩu để mở rộng và tích cực tiêu thụ sản phẩm của công nghiệp và nông dân. Thực hiện tốt chính sách trợ giá, trợ cước vận chuyển hàng thiết yếu cho miền núi. + Đẩy mạnh các biện pháp chỉ đạo, điều hành và tổ chức xây dựng kết cấu hạ tầng các khu du lịch kết hợp với thu hút, kêu gọi nhà đầu tư, trong đó trọng tâm là Khu du lịch Cửa Việt - Cửa Tùng. Tài chính - Ngân hàng: + Thực hiện các biện pháp thu đúng, thu đủ để tăng nguồn thu đồng thời quan tâm nuôi dưỡng nguồn thu để bảo đảm tăng thu ngân sách một cách bền vững. + Thực hiện chủ trương của Chính phủ về nới lỏng chính sách tiền tệ, hạ lãi suất ngân hàng. Các ngân hàng cần có kế hoạch duy trì hoạt động ổn định và bảo đảm tốt nhu cầu vốn cho nền kinh tế. - Huy động và sử dụng vốn đầu tư: + Tích cực huy động vốn đầu tư phát triển toàn xã hội, bảo đảm bù đắp số vốn bị giảm sút do trượt giá nhằm thực hiện mục tiêu kế hoạch 5 năm 2006-2010 và đáp ứng yêu cầu của các mục tiêu phát triển trong năm 2009. Phấn đấu tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội huy động đạt 3.700-3.800 tỷ đồng, tăng 13,6% so với năm 2008. Trong đó: vốn từ ngân sách (gồm cả ODA, TPCP) khoảng 1.600 tỷ đồng, chiếm 42,7%, các nguồn vốn khác chiếm 57,3%. + Vốn ngân sách nhà nước ưu tiên bố trí trả nợ khối lượng hoàn thành, các công trình chuyển tiếp có thể hoàn thành trong năm; các công trình trọng điểm của tỉnh và cân đối cho các chương trình, dự án ODA. Hạn chế tối đa khởi công xây dựng mới, tạm đình hoãn, giãn tiến độ các công trình chưa thực sự cấp thiết. + Khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh đồng thời tham gia đầu tư vào các lĩnh vực văn hoá, giáo dục, y tế theo các quy hoạch, đề án của tỉnh đã được phê duyệt; đầu tư vào các vùng kinh tế trọng điểm, các địa bàn KT-XH khó khăn, địa bàn nông thôn nhằm tạo việc làm và xoá đói giảm nghèo. + Các công trình trọng điểm, đầu tư bằng nguồn vốn ngân sách của tỉnh năm 2009 cần tập trung chỉ đạo thực hiện là: Cầu Cửa Việt: Phấn đấu hoàn thành vào cuối năm 2009; Quảng trường và Nhà văn hoá Trung tâm tỉnh: Đẩy nhanh tiến độ để hoàn thành vào năm 2010; Kết cấu hạ tầng thị xã Đông Hà: gồm nhiều công trình, cần chỉ đạo đẩy nhanh tiến độ; Hoàn thành báo cáo Quy hoạch xây dựng cảng nước sâu Mỹ Thủy và Khu kinh tế biển Đông-Nam Quảng Trị trình Chính phủ bổ sung vào qui hoạch của quốc gia. Hợp tác quốc tế và kinh tế đối ngoại: + Nâng cao chất lượng và hiệu quả sử dụng nguồn vốn ODA của các dự án đang thực hiện; ưu tiên bố trí vốn đối ứng và đẩy nhanh tiến độ giải ngân nguồn ODA. + Tăng cường quảng bá, giới thiệu, hợp tác đầu tư trong và ngoài nước nhằm đẩy mạnh khai thác lợi thế của hành lang kinh tế Đông – Tây và các tiềm năng về du lịch của tỉnh. - Hỗ trợ phát triển doanh nghiệp và kinh tế HTX: + Nâng cao hiệu quả các hoạt động xúc tiến, hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa với nhiều chương trình cụ thể và hình thức phong phú. Tiếp tục thực hiện tốt việc cải tiến cơ chế, thủ tục đăng ký kinh doanh, hướng dẫn doanh nghiệp. + Tiếp tục thực hiện hiệu quả các chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp và hỗ trợ phát triển kinh tế hợp tác theo Nghị định 88/2005/NDD-CP của Chính phủ và Quyết định 272/2005/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Lĩnh vực văn hoá - xã hội: Giáo dục - đào tạo: + Chỉ đạo tiếp tục thực hiện cuộc vận động “Nói không với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục”; thực hiện tốt nhiệm vụ trọng tâm của ngành Giáo dục - Đào tạo năm học 2008-2009 là: “Năm ứng dụng công nghệ thông tin, đổi mới quản lý tài chính và triển khai phong trào xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”; chú trọng nâng cao chất lượng dạy và học; thực hiện đề án luân chuyển giáo viên. Đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động giáo dục - đào tạo; tăng cường công tác đào tạo nghề, nhất là đối tượng thanh niên ở nông thôn. Chỉ đạo thực hiện tốt chương trình xây dựng trường học, nhà ở cho giáo viên bằng nguồn trái phiếu Chính phủ. Y tế, chăm sóc sức khoẻ: + Tập trung chỉ đạo tăng cường công tác dự phòng để ngăn ngừa và phòng bệnh từ xa. Tăng cường công tác kiểm tra về thực hiện vệ sinh an toàn thực phẩm. Thực hiện bảo hiểm y tế cho người nghèo. + Coi trọng giáo dục y đức đối với đội ngũ cán bộ y tế, nâng cao chất lượng khám chữa bệnh, nhất là tuyến huyện, cơ sở. + Chỉ đạo thực hiện quyết liệt chương trình đầu tư cho y tế tỉnh, huyện bằng nguồn vốn trái phiếu Chính phủ, vốn ODA, đồng thời khuyến khích xã hội hoá lĩnh vực y tế theo Nghị quyết của HĐND tỉnh đã thông qua. + Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục và vận động thực hiện các chủ trương, chính sách, pháp luật về Dân số - Kế hoạch hoá gia đình. Văn hoá, thể thao, thông tin, truyền thông: + Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện có chiều sâu và hiệu quả thực chất của phong trào ”Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”. + Có kế hoạch và tổ chức thành công các sự kiện chính trị - xã hội quan trọng của tỉnh trong năm 2009, trong đó: kỷ niệm 20 năm tái lập tỉnh (1989-2009), 200 năm thành lập lỵ sở thị xã Quảng Trị (1809-2009), 55 năm đặc khu Vĩnh Linh, 50 năm đường Trường Sơn huyền thoại (1959-2009), 65 năm thành lập Quân đội Nhân dân Việt Nam (1944-2009). + Đẩy mạnh xã hội hoá các hoạt động văn hoá, thể thao theo đề án xã hội hóa đã được HĐND tỉnh thông qua. + Nâng cao chất lượng các hoạt động thông tin và các loại hình báo chí; mở rộng diện phủ sóng phát thanh, truyền hình; tăng tỷ lệ hộ gia đình được xem truyền hình Việt Nam và được nghe Đài tiếng nói Việt Nam. Lao động, việc làm và xoá đói, giảm nghèo và thực hiện các chính sách xã hội: + Đẩy mạnh thực hiện các nội dung, nhiệm vụ của chương trình việc làm giai đoạn 2006-2010 của tỉnh, trong đó chú ý đến vấn đề tạo việc làm mới ổn định và tại chỗ cho người lao động. + Tiếp tục thực hiện đồng bộ các giải pháp bảo đảm an sinh xã hội, XĐGN, thông qua các chính sách, chương trình hỗ trợ phát triển sản xuất, hỗ trợ đời sống, các dự án XĐGN, bằng nguồn vốn ODA; chăm lo cho sự nghiệp y tế và giáo dục – đào tạo; tổ chức thực hiện tốt các cơ chế, chính sách hiện có. + Thực hiện có hiệu quả các chính sách, chương trình, dự án đầu tư của nhà nước trên địa bàn miền núi và vùng đồng bào dân tộc thiểu số; chỉ đạo thực hiện tốt đề án 61 huyện nghèo của Chính phủ (trong đó tỉnh có huyện Đakrông). + Đẩy mạnh thực hiện Chiến lược quốc gia Vì sự tiến bộ của phụ nữ; đề án về biện pháp thực hiện Chương trình phát triển thanh niên giai đoạn 2008-2010 và Chiến lược đến năm 2020 đã được HĐND tỉnh thông qua. Xây dựng chính quyền: + Tiếp tục sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy, rà soát chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức bên trong của các cơ quan, đơn vị. Đẩy mạnh cải cách hành chính kết hợp thực hiện chương trình hành động phòng chống tham nhũng và thực hành tiết kiệm nhằm tạo môi trường thuận lợi để thu hút đầu tư và kích thích kinh tế phát triển, xây dựng xã hội ngày càng văn minh, tiến bộ. + Nâng cao chất lượng và hiệu quả thực hiện quy chế dân chủ cơ sở. Xem xét, giải quyết kịp thời các trường hợp phản ánh, khiếu nại, tố cáo của công dân. Thực hiện tốt công tác xây dựng, thẩm định, kiểm tra, rà soát hệ thống văn bản. Quốc phòng - an ninh và trật tự an toàn xã hội: + Tăng cường quản lý và bảo vệ biên giới cả đất liền và trên biển; tổ chức sắp xếp, bố trí lại dân cư ở một số khu vực, địa bàn biên giới. + Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng xã, phường, thị trấn trong sạch, vững mạnh, không có tệ nạn xã hội gắn với cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư. Một số giải pháp tổng hợp chủ yếu: Huy động, sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn cho đầu tư phát triển. Tranh thủ sự giúp đỡ của Chính phủ và các Bộ ngành TƯ để tăng nguồn vốn ngân sách đầu tư trên địa bàn tỉnh, nhất là các nguồn vốn TPCP cho giao thông, thủy lợi, giáo dục, y tế, và vận động triển khai thực hiện các dự án ODA; tiếp tục xin ứng vốn kế hoạch 2010 để đảm bảo tiến độ thực hiện các dự án trọng điểm của tỉnh. Tăng cường kiểm tra, thanh tra việc sử dụng vốn đầu tư ngân sách; khắc phục tình trạng đầu tư dàn trãi, chống thất thoát, lãng phí. Làm tốt công tác chuẩn bị đầu tư, chuẩn bị thực hiện dự án, nhất là công tác giải phóng mặt bằng để bàn giao xây dựng cho các công trình. Gắn chặt trách nhiệm của chủ đầu tư trong việc quản lý dự án và giải ngân vốn đầu tư. Nâng cao chất lượng công tác thẩm định đầu tư, thiết kế dự toán theo đúng quy định. Tăng cường giám sát đầu tư cộng đồng theo Quyết định số 80/2005/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Các ngành, địa phương có kế hoạch cụ thể để tổ chức thực hiện chủ trương xã hội hóa các hoạt động giáo dục, đào tạo, y tế, văn hóa, thể dục thể thao theo Nghị quyết số 02/2007/NQ-HĐND của HĐND tỉnh để thu hút đầu tư và bổ sung nguồn nhân lực cho tỉnh. Khuyến khích, tạo mọi điều kiện cho các thành phần kinh tế tham gia đầu tư xây dựng các trường học, bệnh viện và các công trình khác trong lĩnh vực văn hóa xã hội. Tiếp tục thực hiện tốt việc đầu tư theo phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm” và đấu giá quyền sử dụng đất để xây dựng kết cấu hạ tầng. Mở rộng các hình thức đầu tư BT, BTO, BOT. Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, sản xuất, kinh doanh để tạo điều kiện thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, sản xuất, kinh doanh theo hướng tạo sự thuận lợi và bình đẳng giữa các loại hình doanh nghiệp, các nhà đầu tư. Đẩy nhanh tiến độ xây dựng kết cấu hạ tầng các khu công nghiệp Nam Đông Hà, Quán Ngang, khu dịch vụ du lịch Cửa Việt – Cửa Tùng, khu kinh tế thương mại đặc biệt Lao Bảo để tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư triển khai thực hiện các dự án. Phối hợp chặt chẽ với các đơn vị cung cấp dịch vụ điện, nước, thông tin liên lạc... trên địa bàn để hỗ trợ đầu tư cho các dự án. Đẩy mạnh và đổi mới phương thức vận động, xúc tiến đầu tư có hiệu quả hơn. Đẩy nhanh tiến độ xây dựng và nâng cao chất lượng công tác quy hoạch, đảm bảo khai thác hiệu quả các tiềm năng, lợi thế của tỉnh. Hoàn thành việc lập quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh đến năm 2020 trình HĐND tỉnh thông qua và trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt để chuẩn bị cho xây dựng kế hoạch 5 năm 2011-2015 và văn kiện Đại hội Tỉnh Đảng bộ lần thứ XV. Tập trung quy hoạch xây dựng các công trình trọng điểm, mang tính quyết định đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, trong đó chú trọng: quy hoạch xây dựng cảng biển nước sâu Mỹ Thủy, quy hoạch phát triển khu kinh tế biển Đông-Nam Quảng Trị và qui hoạch điều chỉnh bổ sung Khu kinh tế thương mại đặc biệt Lao Bảo. Tăng cường thực hiện các giải pháp về cơ chế, chính sách để phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Triển khai thực hiện Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết TƯ7 (khóa X) về “Xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. Các ngành, địa phương có kế hoạch cụ thể để thực hiện Nghị quyết của HĐND tỉnh về đào tạo nguồn nhân lực của tỉnh (trọng tâm là đào tạo nghề cho người lao động) giai đoạn 2007-2015. Tiếp tục thực hiện đồng bộ các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục phổ thông. Mở rộng quy mô, nâng cao năng lực và chất lượng đào tạo chuyên nghiệp và dạy nghề. Phối kết hợp chặt chẽ giữa Trung tâm hướng nghiệp dạy nghề và Trung tâm dạy nghề Tổng hợp ở các huyện, thị xã nhằm phát huy hiệu quả công tác dạy nghề trên địa bàn các huyện, thị xã gắn đào tạo với thị trường sử dụng lao động. Thực hiện các chính sách tạo việc làm, giảm nghèo và đảm bảo an sinh xã hội. Tăng cường đầu tư ngân sách cho các mục tiêu an sinh xã hội, trong đó cần chú ý đẩy mạnh phát triển các lĩnh vực văn hoá, xã hội, giáo dục, y tế, xoá đói giảm nghèo, giải quyết việc làm; bảo đảm phát triển kinh tế gắn liền với việc giải quyết ngày càng tốt hơn các vấn đề văn hoá - xã hội. Thực hiện tốt các chính sách hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số, các đối tượng chính sách, hộ nghèo, hộ cận nghèo, ngư dân và các vùng khó khăn, vùng bị thiên tai. Khẩn trương hoàn chỉnh thủ tục về đề án và các điều kiện cần thiết để triển khai thực hiện chương trình đầu tư 61 huyện nghèo của Chính phủ trên địa bàn huyện Đakrông. Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện đồng bộ các giải pháp xoá đói giảm nghèo để thực hiện mục tiêu chương trình xoá đói giảm nghèo giai đoạn 2006-2010 của tỉnh đã được phê duyệt. Trọng tâm là: hỗ trợ đầu tư phát triển sản xuất, hỗ trợ đời sống, hướng dẫn kỹ thuật sản xuất, giải quyết vốn vay ưu đãi, hỗ trợ đào tạo nghề, chăm sóc y tế... Đẩy mạnh cải cách hành chính, phát huy hiệu lực, hiệu quả của bộ máy nhà nước, tăng cường công tác phòng chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm chống lãng phí. Đẩy mạnh cải cách hành chính, trọng tâm là cải cách các thủ tục hành chính, trong đó một số lĩnh vực đáng chú ý là thực hiện cơ chế "một cửa liên thông”, trong các khâu giải quyết thủ tục hành chính liên quan đến đất đai, đầu tư, doanh nghiệp và người dân. Tổng kết rút kinh nghiệm thực hiện việc cải cách thủ tục hành chính trong các khâu cấp phép đầu tư, cấp phép kinh doanh, quản lý xây dựng, quản lý đất đai, hộ khẩu, hộ tịch, công chứng, cấp hộ chiếu. Tiếp tục thực hiện các biện pháp hiện đại hóa nền hành chính. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước; mỏ rộng các giao dịch hành chính qua mạng diện rộng. Thực hiện áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO: 9001-2000 vào các cơ quan hành chính theo kế hoạch giai đoạn 2007-2010 đã được phê duyệt. Đề cao trách nhiệm của cá nhân người đứng đầu cơ quan, đơn vị trong đấu tranh chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Thực hiện tốt quy chế dân chủ cơ sở, bảo đảm công khai, minh bạch các hoạt động kinh tế, tài chính ở các cơ quan hành chính và đơn vị sự nghiệp công. Phối hợp, cộng tác chặt chẽ với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp, các tổ chức chính trị xã hội, các phương tiện thông tin đại chúng trong công tác đấu tranh phòng chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước. Tổ chức phát động phong trào thi đua phát triển sản xuất kinh doanh và xây dựng xã hội văn minh sâu rộng trong tất cả các cấp, các ngành, tổ chức kinh tế, đoàn thể, chính trị, xã hội. Thực hiện công tác thi đua khen thưởng đúng người, đúng việc để kịp thời động viên phong trào và thúc đẩy sản xuất phát triển.