Hiệu quả từ các công trình thủy lợi
(QT) - Xã Gio Mai và một loạt xã vùng phía đông của huyện Gio Linh (Quảng Trị), có diện tích đất ruộng khá lớn nhưng trước đây hàng ngàn hộ gia đình ở đây vẫn không thể có được cuộc sống ổn định. Sản xuất nông nghiệp chủ yếu độc canh cây lúa nhưng đồng ruộng lại thiếu nước, mỗi năm chỉ trồng được vụ lúa đông xuân nhưng nhờ nước trời còn vụ hè thu bỏ hoang, không trồng được loại cây gì. Năm 1992 tỉnh Quảng Trị khởi công xây dựng công trình thủy lợi Trúc Kinh. Từ đó khó khăn lớn nhất của các xã vùng phía đông huyện Gio Linh đã được tháo gỡ, người dân rất phấn khởi khi ruộng đồng quanh năm đủ nước, lúa lên xanh tốt, năm nào cũng bội thu, năng suất bình quân đạt 52 tạ/ha/vụ, cuộc sống của người dân thay đổi hẳn. Ông Lê Thọ Trung, người dân xã Gio Mai, huyện Gio Linh cho biết: "Trước đây khi chưa có hệ thống thủy lợi Trúc Kinh thì chỉ có vãi lúa vụ 10 và trồng khoai lang, công sức bỏ ra nhiều nhưng thu lại chẳng là bao, làm không đủ ăn.
 |
Trên công trường xây dựng công trình hồ chứa nước Đá Mài- Tân Kim. Ảnh: P.V |
Từ ngày có công trình này nguồn nước dồi dào. Xã Gio Mai ở cuối nguồn kênh mương nhưng ruộng không bao giờ thiếu nước, người dân mở rộng diện tích, đưa vào sản xuất 2 vụ lúa cả đông xuân và hè thu, năng suất năm sau cao hơn năm trước". Cũng như ở Gio Mai, cách đây 5 năm khi hồ chứa nước Ái Tử chưa được xây dựng thì ruộng đồng của các xã Triệu Ái, Triệu Thượng, huyện Triệu Phong cằn khô, vụ hè thu hàng trăm héc ta phải bỏ hoang. Bây giờ thì điều đó không còn nữa, những vùng treo nước, những thửa ruộng ở cuối kênh mương vẫn thường xuyên đủ nước để sản xuất. Người dân không chỉ mở rộng diện tích lúa mà còn có điều kiện để xây dựng những cánh đồng lúa chất lượng cao. Đặc biệt ở 2 huyện miền núi Hướng Hóa và Đakrông, với việc xây dựng các công trình thủy lợi nhỏ đã tạo điều kiện cho đồng bào dân tộc thiểu số mở rộng diện tích lúa nước, thay đổi tập quán làm ăn, nhiều vùng bây giờ đã chủ động nguồn lương thực tại chỗ. Ông Nguyễn Văn Bài, Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho biết, năm 1989 khi tỉnh được lập lại trên địa bàn chỉ có vài chục công trình thủy lợi vừa và nhỏ chỉ tưới cho khoảng hơn 10 ngàn héc ta lúa. Bên cạnh đó hàng năm phải đối mặt với hạn hán, lũ lụt nên sản lượng lương thực đạt thấp, đến mùa giáp hạt hàng ngàn hộ gia đình phải nhờ vào cứu trợ của Nhà nước. Xác định thủy lợi là yếu tố quan trọng, 20 năm qua tỉnh đã tranh thủ sự giúp đỡ của Trung ương và có nhiều nỗ lực, từng bước xây dựng hệ thống thủy lợi ở khắp các địa bàn với tổng vốn đầu tư hàng ngàn tỷ đồng. Chỉ tính riêng trong năm qua đã đầu tư gần 1.200 tỷ nâng cấp hệ thống thủy lợi Nam Thạch Hãn, xây dựng hồ chứa nước Ðá Mài - Tân Kim, công trình thủy lợi Sa Lung, sửa chữa đê Ô Giang. Hiện toàn tỉnh có 300 công trình thủy lợi, gồm 72 hồ chứa, 44 đập dâng, 34 trạm bơm tưới tiêu và 150 công trình thủy lợi nhỏ với tổng dung tích khoảng 100 triệu mét khối, đảm bảo tưới cho 32 ngàn ha lúa và hoa màu. Tùy theo đặc điểm của từng vùng, tỉnh chỉ đạo chọn lựa xây dựng những công trình phù hợp. Đối với vùng đồng bằng xây dựng các hồ đập, kết hợp trạm bơm, với vùng gò đồi, miền núi xây dựng đập dâng, hồ chứa vừa và nhỏ. Bên cạnh đó xây dựng hệ thống đê, kè ngăn mặn, chống lũ tiểu mãn, với vùng cát xây dựng kênh tiêu thủy. Nhờ vậy không chỉ đảm bảo nguồn nước tưới mà còn tạo điều kiện cho người dân áp dụng các tiến bộ kỹ thuật trong canh tác và chuyển đổi phương thức canh tác từ cấy sang gieo thẳng, tiết kiệm nhân công, đồng thời giải phóng sức lao động cho nông dân. Thủy lợi đã góp phần quan trọng trong sản xuất nông nghiệp, tổng sản lượng lương thực năm 1989 gần 94 ngàn tấn nay tăng lên 22,05 vạn tấn. Nhờ có thủy lợi, người dân có điều kiện phát triển chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản phát triển mạnh với hơn 2.500 ha, chủ yếu là nuôi tôm xuất khẩu. Hệ thống công trình thủy lợi còn góp phần rất lớn vào cải tạo môi sinh, môi trường, đặc biệt ở vùng cát người dân đã cải tạo hơn 5 ngàn héc ta đất đưa vào sản xuất theo mô hình nông- lâm kết hợp. Vùng cát Quảng Trị bây giờ không còn nạn cát bay, cát lấp và đã hình thành 11 làng sinh thái với 723 hộ dân sinh sống có thu nhập ổn định. Để những công trình thủy lợi phát huy hiệu quả lâu dài, ngành nông nghiệp đã thường xuyên duy tu, bảo dưỡng, nâng cấp, sửa chữa và từng bước kiên cố hóa hệ thống kênh mương. Bên cạnh đó, tích cực nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ trong khi thi công các công trình. Chẳng hạn cống đập Việt Yên với nhiệm vụ ngăn mặn, giữ ngọt. Hệ thống cửa đóng mở tự động ứng dụng công nghệ mới và chống ăn mòn kim loại cánh cửa cống bằng công nghệ "Anot hysinh" kết quả đề tài nghiên cứu cấp Nhà nước giúp cho công tác quản lý, vận hành sử dụng thuận lợi và giảm chi phí sửa chữa thường xuyên hàng năm. Đặc biệt ở công trình thủy nông Nam Thạch Hãn đã thi công dập dâng cao su có chiều dài 135 mét, cao 2 mét, công trình lớn nhất Việt Nam nhằm tăng thêm dung tích nước ở thượng lưu đập 11 triệu rưỡi mét khối, tăng khả năng tưới 700 ha, vừa đảm bảo không gây ngập lụt cho vùng thượng nguồn trong mùa lũ chính vụ. Hiện nay tỉnh có một công ty chuyên làm nhiệm vụ quản lý, khai thác các công trình thủy lợi với các xí nghiệp trực thuộc ở các huyện thị, đội ngũ cán bộ, công nhân có trình độ năng lực quản lý cao, nhất là đội ngũ cán bộ thủy nông. Công ty này thường xuyên chủ động triển khai các biện pháp duy tu, bảo dưỡng, phối hợp chặt chẽ với các địa phương tổ chức nâng cấp, sửa chữa các công trình nhằm đảm bảo an toàn trong mùa mưa lũ cũng như trong quá trình tưới. Có thể nói hệ thống công trình thủy lợi ở Quảng Trị đã phát huy có hiệu quả, góp phần quan trọng trong việc chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi, tạo động lực tích cực trong tăng trưởng kinh tế, làm tăng thêm niềm phấn khởi của người dân vào công cuộc đổi mới. Tuy nhiên hiện nay một số vùng vẫn còn thiếu nước tưới, mặt khác không ít công trình xây dựng đã lâu, nay đã xuống cấp, trong lúc ngân sách của tỉnh đầu tư cho công tác này còn hạn chế. Điều đáng nói nữa là hiện nay Nhà nước đã thực hiện miễn thủy lợi phí nên việc duy tu, bảo dưỡng các công trình hầu như các Hợp tác xã cũng như người dân không mấy quan tâm và cho đó là công việc của các đơn vị thủy nông. Chính vì vậy tỉnh Quảng Trị đang tích cực triển khai một số biện pháp quan trọng để đưa sản xuất nông nghiệp phát triển toàn diện, vững chắc. Tỉnh sẽ tiếp tục tranh thủ sự giúp đỡ của Trung ương, huy động nhiều nguồn lực để xây dựng mới các công trình thủy lợi, nhất là ở vùng miền núi và gò đồi, nâng cấp các công trình có dấu hiệu xuống cấp, xây dựng hệ thống đê bao chống lũ, chống úng, chống xói lở và ngăn mặn ven sông, ven biển, tiếp tục thực hiện chương trình kiên cố hóa kênh mương. Về công tác quản lý, một mặt nâng cao năng lực của các đơn vị thủy nông, mặt khác có kế hoạch giao quyền tự chủ quản lý công trình cho các xã, các Hợp tác xã. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn sẽ ký kết hợp đồng giao trách nhiệm cụ thể cho các địa phương, tạo mối quan hệ chặt chẽ giữa doanh nghiệp với nhà nông. Các công trình thủy lợi nhỏ, hệ thống kênh mương cấp 2 trở đi các Hợp tác xã phải có sự đầu tư trở lại bảo trì các công trình trong quá trình khai thác. BÁ THUẦN