Những mùa xuân cuộc đời
(QT Xuân) - Với ông Nguyễn Quang Sóa, thôn Thái Lai, xã Vĩnh Thái, huyện Vĩnh Linh (Quảng Trị) thì những mùa xuân của cuộc đời là mùa xuân tươi đẹp nhất, ý nghĩa nhất. Cho dù đó là mùa xuân của những năm tháng ác liệt xưa, khi ông là người thuyền trưởng gan dạ, không quản mưa bom bão đạn để tiếp tế cho đảo Cồn Cỏ hay mùa xuân thanh bình sau ngày đất nước giải phóng, vui vầy cùng con cháu và đảm nhận nhiều công việc của làng, xã… Cuộc hội ngộ sau 40 năm Trong gia sản của họa sĩ Phạm Ngọc Liệu về con người và mảnh đất Vĩnh Linh thời chiến tranh có bức ký họa chân dung về người thuyền trưởng khi ông vừa hoàn thành nhiệm vụ sau chuyến đi tiếp tế cho đảo Cồn Cỏ trở về. Lạ thay, nhìn vào bức ảnh đó, ta không hề thấy dấu vết nào của chiến tranh, không thấy vẻ mệt mỏi hay sự sợ hãi của một con người vừa trở về từ “hành trình máu”. Chỉ thấy trong bức ảnh đó là vẻ tươi trẻ của một chàng trai miền biển, vẻ rắn rỏi, phong trần và đầy lạc quan của một thuyền trưởng dạn dày kinh nghiệm. Đó chính là chân dung của ông Nguyễn Quang Sóa, người thuyền trưởng tiếp tế cho đảo Cồn Cỏ năm nào. Ông Sóa kể: “Hôm đó, tôi vừa hoàn thành chuyến tiếp tế hàng ra đảo Cồn Cỏ trở về thì gặp họa sĩ Phạm Ngọc Liệu trên bãi biển. Biết họa sĩ muốn vẻ chân dung của mình nên tôi đồng ý luôn. Bức ảnh được vẽ từ ngày ấy những mãi 40 năm sau tôi mới được nhìn thấy. Chiến tranh mà…”.
 |
Ông Nguyễn Quang Sóa (phải) cùng họa sĩ Phạm Ngọc Liệu trong cuộc hội ngộ 40 năm - Ảnh do nhân vật cung cấp |
40 năm sau, họa sĩ Phạm Ngọc Liệu đã tìm về miền quê biển Vĩnh Thái, gặp lại nguyên mẫu trong bức ảnh của mình để trao tặng. Với họa sĩ, thẳm sâu trong cuộc đời ông là chiến trường và đồng đội, là dòng sông và chiếc cầu: dòng sông ấy là dòng Bến Hải, chiếc cầu ấy là cầu Hiền Lương. Mảnh đất và con người Vĩnh Linh đã in sâu trong từng nét vẽ của ông. Những bức ký họa thời chiến của họa sĩ Phạm Ngọc Liệu đều có những dòng chú thích, ghi đầy đủ họ, tên và địa danh của nhân vật. Đó chính là những thông tin để ông lần tìm lại nhân vật của mình. Cuộc gặp gỡ giữa họa sĩ và nhân vật trong bức ảnh diễn ra rất cảm động. Họ cùng nhau ôn lại những câu chuyện ngày xưa cùng ăn, cùng ở nơi miền quê biển này. Riêng ông Sóa, bức chân dung họa sĩ tặng được ông trân quý, không phải chỉ bởi tấm lòng của người họa sĩ quân đội mà vì nó còn gợi nhớ trong ông về thời tuổi trẻ sôi nổi, hào hùng trong chiến tranh. ...và ký ức của người thuyền trưởng Mỗi lần ngắm nhìn bức chân dung về thời trai trẻ của mình, ký ức như vỡ òa trong ông. Nếu không có chiến tranh, cuộc đời của người thanh niên Nguyễn Quang Sóa có thể đã rẽ sang một lối khác. Năm 28 tuổi, ông được cử đi học lớp Trung cấp thủy sản ở Hải Phòng. Thời gian về quê thực tập để trở lại trường nhận bằng tốt nghiệp thì ở quê hương ông, chiến tranh xảy ra ác liệt. Ông ở lại, trở thành người thuyền trưởng gan dạ trong những chuyến tiếp tế cho đảo, thay vì trở thành một công nhân thủy sản như ước mơ trước đó. Cuối tháng 5/1965, tình hình trên đảo Cồn Cỏ khá nguy ngập, gạo ăn dè sẻn, đạn tính từng viên, nước sạch không có dùng. Địch biết điều đó nên một mặt dội bom bắn phá trên đảo, mặt khác dùng tàu chiến bao vây thật chặt, bịt kín mọi lối vào ra giữa đảo và đất liền. Với quyết tâm giữ đảo, đầu tháng 6/1965, Đảng ủy Vĩnh Linh phát lời kêu gọi “Tất cả vì đảo”. Ngay lập tức, hàng ngàn lá đơn của người dân các xã ven biển như Vĩnh Thái, Vĩnh Thạch, Vĩnh Giang, Vĩnh Quang xin được đi tiếp tế cho đảo. Hồi đó, ông Sóa là Phó Bí thư Xã đoàn Vĩnh Thái. Phong trào này cũng được phát động rộng rãi trong đoàn viên thanh niên, ai cũng hưởng ứng nhiệt tình và viết đơn xin được tiếp tế cho đảo quê hương. Trong những năm tháng đó, ông cùng tổ thuyền của xã đã vận chuyển vượt biển trên 100 lượt, đưa hơn 605 tấn hàng đến với đảo Cồn Cỏ, trong đó có 16 lần bị tàu địch bao vây đánh phá. Chính vì tính chất đánh phá ác liệt của đế quốc Mỹ mà việc vận chuyển hàng hóa ra đảo phải đi vào ban đêm, với những chuyến đi thuận lợi thì khoảng 6 giờ tối nhận hàng, đến 3 giờ sáng ra đến đảo. Thuyền của ông thường vận chuyển 1,7 tấn hàng, đi 6 người với phương châm luồn lách, tránh mà đi mới lọt được sự phong tỏa của kẻ thù. Người được lựa chọn phải có kinh nghiệm đi biển cao, kỹ thuật tốt mới chèo lái thuyền cập bến an toàn.
 |
Truyền cho lớp trẻ tình yêu quê hương, biển đảo qua những trang sách -Ảnh: H.H |
Trong hàng trăm chuyến tiếp tế cho đảo, ông đã không ít lần vào sinh ra tử, như chuyến đi vào ngày 20/4/1966, thời điểm địch bắn phá rất ác liệt. Hôm đó, thuyền cách đất liền 20 km thì gặp tàu địch tuần tiễu. Khi những chiếc pháo sáng của địch bắn lên sáng rực cả bầu trời thì chiếc thuyền vận chuyển đã nằm gọn trong vòng vây của địch. Chúng dùng pháo kích bắn xối xả vào mục tiêu đã phát hiện. Trong tình thế cấp bách đó, ông ra lệnh cho anh em nhảy xuống bám lấy mạn thuyền sẵn sàng chiến đấu. Khi tàu địch đến gần, pháo kích của địch khiến chiếc thuyền bị thủng, nước tràn vào bên trong. Đồng đội hy sinh 3 người, chỉ còn ông và một người bị thương nặng. Đợi tàu Mỹ tiếp tục tuần tiễu, ông dùng phao nhằm hướng đảo Cồn Cỏ mà bơi để đưa đồng đội của mình cập bờ an toàn. Suốt hơn 8 tiếng đồng hồ giữa biển cả mênh mông, đôi khi ông có cảm giác như mình bị kiệt sức. Đến gần sáng, ông mới vào đến đảo, người đồng đội của ông sau đó đã được cứu sống. Hay lần khác gặp tình huống tương tự, ông đã xé áo của mình băng vết thương cho đồng đội rồi đặt người đó lên phao, dùng mái chèo gãy bơi đưa người bị thương vào đảo cấp cứu. Mái chèo đó của ông hiện vẫn còn được lưu giữ tại Bảo tàng huyện Vĩnh Linh, như nhắc nhở thế hệ trẻ về tinh thần anh dũng, gan dạ của cha ông đi trước. Với những thành tích đó, ông Sóa được chọn đi báo cáo điển hình tại đại hội thi đua công-nông-binh, được tặng huy hiệu Bác Hồ… Kể về những ngày xưa, ông Sóa không bao giờ hết chuyện. Câu chuyện đó bắt đầu từ khi ông còn là cậu thanh niên 16 tuổi tham gia cùng với dân quân địa phương rào làng chiến đấu, đào hầm chông diệt giặc Pháp, gánh lương thực lên đồn Cù Bai. Vốn làm công tác đoàn nên ông có tác phong nhanh nhẹn, ăn to nói lớn. Những câu chuyện vào sinh ra tử, dù khó khăn, hiểm nguy cỡ nào với ông cũng nhẹ tênh, kể cả chuyện ông suýt nữa được phong anh hùng, nhắc lại ông cũng không hề tiếc nuối. Ông bảo thời điểm đó, không chỉ ông mà tất cả những ngư dân vùng biển Vĩnh Linh đều quyết tâm bảo vệ biển đảo quê hương, tất cả đều sẵn sàng hy sinh vì hòn đảo tiền tiêu của Tổ quốc. Nhiều người đi qua chiến tranh, cống hiến máu xương rồi lặng lẽ trở về cuộc đời biển giã. Họ đều có chung suy nghĩ rằng những năm tháng đẹp nhất của cuộc đời đã dành cho Cồn Cỏ. Vậy nhưng cái khó lớn nhất của cuộc đời ông Sóa lại ở vào thời bình, khi vợ ông mất sớm, để lại 7 người con đang tuổi ăn, tuổi lớn. Cảnh gà trống nuôi con đã khó, lại càng khó hơn khi điều kiện sống của những năm đó quá cơ cực. Có người khuyên ông nên lấy vợ khác để cùng lo cho con cái, nhưng ông trăn trở rất nhiều để cuối cùng đi đến quyết định ở vậy nuôi con nên người. Không chỉ có vậy, ông còn nhiệt tình tham gia công tác xã hội, làm chủ nhiệm hợp tác xã nhiều năm liền, rồi làm Chủ tịch Hội Người cao tuổi từ năm 2001 đến năm 2012, kiêm Phó Chủ tịch MTTQ xã. Ở bất cứ nhiệm vụ nào, ông cũng cố gắng để hoàn thành tốt, được bà con tin tưởng. Đến giờ, các con của ông đã yên bề gia thất, có người thành đạt trên cương vị công tác, có người tiếp nối nghề cha ông gắn bó với biển khơi. Bản thân ông lúc rảnh rỗi cũng theo con cháu đi đánh bắt cá. Đôi mắt của một ông lão ở vào tuổi xưa nay hiếm quen với hướng sao, luồng lạch biển vẫn còn nét tinh anh. Quen với vị mặn mòi của biển khơi nên ngồi không là ông nhớ. Mà có lẽ, cái vị mặn mòi đó của biển khơi đã hun đúc nên tinh thần lạc quan, gan dạ cũng như vẻ rắn rỏi trong con người ông. Tuổi trẻ ông được cha ông răn dạy rằng phải yêu biển đảo quê hương, bởi đó là chủ quyền quốc gia, là nguồn sống của ngư dân từ đời này sang đời khác. Ông muốn truyền lại lời răn dạy đó cho con cháu sau này. Nhà ông chỉ cách biển một rặng cây. Tôi hỏi: “Gần biển như thế ngộ nhỡ khi có bão…”. Ông ngắt lời: “Sợ gì, ngày xưa ra vào giữa làn đạn kẻ thù, có khi cứ ngỡ không giữ được tính mạng mà vẫn không biết sợ, nay sống trong hòa bình là tốt lắm rồi”. Chợt lắng nghe tiếng sóng biển rầm rì thật êm ái. Tiếng sóng ngày đêm vỗ về đưa ông về với ký ức xưa, chúng lưu truyền mãi trong từng nhịp vỗ của mình chiến công của ông, của người dân bên những làng quê chân sóng ngày nào, nên ông không thể xa… PHAN HOÀI HƯƠNG