Thực trạng và giải pháp về cung cấp nước sạch cho nông thôn
Hiện nay dân số Việt Nam sống ở nông thôn có trên 60 triệu người, chiếm gần 75% số dân của cả nước. Vì vậy việc cấp nước cho nhu cầu ăn uống, sinh hoạt ở nông thôn đang là một vấn đề quan trọng.  Theo khảo sát của ngành Nông nghiệp&PTNT, vùng thiếu nước nghiêm trọng là vùng ven biển chạy dài từ Móng Cái đến Hà Tiên bao gồm 91 huyện, vùng núi cao từ 700 m trở lên khoảng 11,4 triệu ha với hàng chục triệu người sinh sống... Quảng Trị cũng là tỉnh nằm trong vùng thiếu nước bởi khí hậu khắc ...

Thực trạng và giải pháp về cung cấp nước sạch cho nông thôn

Hiện nay dân số Việt Nam sống ở nông thôn có trên 60 triệu người, chiếm gần 75% số dân của cả nước. Vì vậy việc cấp nước cho nhu cầu ăn uống, sinh hoạt ở nông thôn đang là một vấn đề quan trọng. Theo khảo sát của ngành Nông nghiệp&PTNT, vùng thiếu nước nghiêm trọng là vùng ven biển chạy dài từ Móng Cái đến Hà Tiên bao gồm 91 huyện, vùng núi cao từ 700 m trở lên khoảng 11,4 triệu ha với hàng chục triệu người sinh sống... Quảng Trị cũng là tỉnh nằm trong vùng thiếu nước bởi khí hậu khắc nghiệt, địa hình lắm đèo dốc, núi cao nên nguồn nước phục vụ cho đời sống của người dân càng trở nên khan hiếm hơn.

Nước sạch đã về đến vùng bản
Trên thực tế vùng nông thôn đã thiếu nước về số lượng nhưng chất lượng nước cũng chưa đảm bảo. Lâu nay để giải quyết vấn đề nước ăn uống và sinh hoạt cho vùng nông thôn, các loại dụng cụ chứa nước thường là bể, chum, vại...còn nguồn nước cung cấp là giếng, ao hồ nhỏ, nước mưa...Tại nhiều nơi, người dân địa phương áp dụng các biện pháp như lọc thô, đánh phèn...để làm sạch nguồn nước sinh hoạt của gia đình. Nhưng trước tình hình ô nhiễm ngày càng tăng của sông ngòi, môi trường sống, những biện pháp trên dần dần trở nên ít hiệu quả. Chất lượng nước sinh hoạt ở nông thôn hiện nay là điều đáng lo ngại. Theo kết quả xét nghiệm của Trung tâm nước sinh hoạt và vệ sinh môi trường nông thôn (Bộ NN&PTNT) cho thấy: nguồn nước mặt (vốn đang được sử dụng khá rộng rãi ở nông thôn hiện nay) bị nhiễm bẩn vi sinh ở mức cao nhất, gần như 100% không đạt tiêu chuẩn chất lượng. Nguồn nước mưa được coi là sạch nhưng cũng chỉ có 50% đạt tiêu chuẩn. Chỉ có nguồn nước ngầm, đặc biệt là nước ngầm sâu, đạt tiêu chuẩn nước sạch cao nhưng cũng chỉ ở mức 91%. Tuy nhiên do giá thành cao nên rất nhiều gia đình ở vùng nông thôn ngại sử dụng nước ngầm đã qua xử lý mà tận dụng nguồn nước giếng tự nhiên chưa qua lắng lọc, khử trùng. Mặt khác nguồn vốn để xây dựng các công trình nước hợp vệ sinh là khá cao nên người dân vùng nông thôn khó tiếp cận được nguồn nước sạch đã qua xử lý. Do sử dụng nước không bảo đảm tiêu chuẩn, nên số người bị mắc những nhóm bệnh liên quan đến sử dụng nước ở nông thôn khá cao. Tỷ lệ mắc bệnh tiêu chảy và viêm dạ dày, đường ruột khá phổ biến. Tỷ lệ mắc các bệnh truyền nhiễm như thương hàn, lỵ trực tràng... gia tăng. Đặc biệt là tỷ lệ phụ nữ mắc bệnh phụ khoa do thiếu nước sạch để sử dụng ở nông thôn cũng rất cao. Chưa kể việc sử dụng nước không hợp vệ sinh còn dẫn đến tình trạng suy giảm sức khỏe, sức lao động, đặc biệt ở phụ nữ và trẻ em làm tăng chi phí y tế cho xã hội. Trước thực trạng đó, việc tìm ra một giải pháp để đáp ứng cho nhu cầu sử dụng nước sinh hoạt đủ tiêu chuẩn ở nông thôn trở nên cấp thiết. Tuy nhiên, để thực hiện điều này lại cần có một số vốn cũng như thời gian thực hiện. Trong lúc chờ đợi một sự đầu tư có tính chất hoàn chỉnh của Nhà nước, nhiều biện pháp nhằm giảm bớt tình trạng sử dụng nước nhiễm bẩn đã được áp dụng như kêu gọi sự đầu tư của nước ngoài, các dự án BOT... Ở nhiều vùng người dân đã cùng tự đầu tư để xây dựng hệ thống cung cấp và xử lý nước sạch cho cả làng hoặc xã nơi mình sinh sống. Riêng ở địa bàn tỉnh Quảng Trị nhiều năm qua, Trung tâm nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn đã nỗ lực tìm kiếm nguồn vốn, tranh thủ sự hợp tác của cộng đồng hưởng lợi để triển khai các chương trình cấp nước sinh họat về vùng nông thôn, đặc biệt ưu tiên đối với vùng núi cao và vùng ngập lụt, nơi có nguồn nước bị chua phèn, nhiễm mặn... Tuy nhiên cho đến nay tỷ lệ ""phủ"" nước sạch vẫn đang còn hạn chế. Theo khảo sát của chúng tôi, ở vùng thấp trũng của Hải Lăng với hơn 10 xã nhưng tỷ lệ người dân được sử dụng nước sạch đạt rất thấp. Mặc dù trên thực tế xã các công trình nước đã được xây dựng từ nhiều nguồn khác nhau nhưng hiệu quả sử dụng chưa cao. Vùng ""khuyết"" nước sạch hiện nay ở Quảng Trị chính là địa bàn miền núi gồm các huyện như Đakrông, Hướng Hóa với tỷ lệ chưa đầy 50% số xã có công trình nước sạch. Đã vậy, công tác quản lý, khai thác của người dân ở nhiều địa phương chưa tốt nên nhiều công trình không phát huy hiệu quả gây lãng phí ngân sách nhà nước. Vì vậy làm thế nào để thu hút được nguồn kinh phí đầu tư xây dựng nhiều công trình nước sạch cho vùng nông thôn, miền núi cùng với việc đưa ra những giải pháp quản lý, khai thác sử dụng có hiệu quả luôn đặt ra những thách thức cho các cấp, các ngành và chính quyền địa phương. Hiện nay tỉnh Quảng Trị đang triển khai dự án nước sạch và vệ sinh môi trường từ nguồn vốn của chương tình mục tiêu quốc gia. Theo đó, nhiều công trình nước ở vùng khan hiếm nguồn nước, vùng sâu vùng xa đã được xây dựng. Ngoài ra tỉnh và các địa phương đã kêu gọi được sự tham gia hỗ trợ kinh phí xây dựng các công trình nước sạch của một só dự án như Chia sẻ, Tổ chức Đông -Tây hội ngộ... Nhưng về công tác quản lý, bảo quản và khai thác công trình các địa phương mong muốn được nhà nước tiếp tục đầu tư thêm một nguồn kinh phí nhất định dùng cho việc tu sửa, bảo quản sau đầu tư. Mặt khác các địa phương nên thành lập một BQL khai thác các công trình nước (có thể tự thành lập hoặc đấu thầu) để tăng cường công tác quản lý, khai thác công trình nước. Có như vậy mới ""tăng tuổi thọ"" cho công trình mà đặc biệt là phát huy được công suất cấp nước đảm bảo cung ứng cho người dân vùng nông thôn phục vụ sinh hoạt hàng ngày. Bài và ảnh: Tân Nguyên