Huy động các nguồn lực, chăm sóc đối tượng chính sách và đảm bảo an sinh xã hội
*  LÊ VŨ BẰNG, Giám đốc Sở LĐ-TB&XH Quảng Trị  Ngay từ những ngày đầu sau Cách mạng Tháng 8 thành công, Trung ương Đảng, Bác Hồ và Chính phủ đặc biệt quan tâm đến công tác lao động và xã hội. Ngày 28/8/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Tuyên cáo “Về việc thành lập Chính phủ lâm thời Việt Nam dân chủ cộng hoà”.  Ở Trung ương, trong số 13 Bộ đầu tiên của Chính phủ có 2 Bộ làm chức năng quản lý các lĩnh vực công tác của ngành, đó là Bộ Lao động và Bộ Cứu trợ xã hội. Gắn liền với nhiệm vụ lịch sử ...

Huy động các nguồn lực, chăm sóc đối tượng chính sách và đảm bảo an sinh xã hội

* LÊ VŨ BẰNG, Giám đốc Sở LĐ-TB&XH Quảng Trị

Ngay từ những ngày đầu sau Cách mạng Tháng 8 thành công, Trung ương Đảng, Bác Hồ và Chính phủ đặc biệt quan tâm đến công tác lao động và xã hội. Ngày 28/8/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Tuyên cáo “Về việc thành lập Chính phủ lâm thời Việt Nam dân chủ cộng hoà”. Ở Trung ương, trong số 13 Bộ đầu tiên của Chính phủ có 2 Bộ làm chức năng quản lý các lĩnh vực công tác của ngành, đó là Bộ Lao động và Bộ Cứu trợ xã hội. Gắn liền với nhiệm vụ lịch sử của dân tộc, chức năng, nhiệm vụ và tổ chức hoạt động của ngành từng bước thay đổi và phát triển. Ngày 28/8/1945 đánh dấu sự ra đời của ngành Lao động, Thương binh và Xã hội (LĐ-TB&XH). Trong suốt chặng đường lịch sử này, công tác LĐ-TB&XH luôn được đặt đúng trọng tâm và phát huy nguồn lực, trở thành “chiếc cầu nối” giữa chính sách của Đảng, Nhà nước với cộng đồng và các đối tượng thụ hưởng chính sách, góp phần không nhỏ vào thắng lợi chung của cách mạng Việt Nam. Sau Cách mạng Tháng 8 năm 1945, ngành đã ban hành những chính sách đầu tiên về lao động, việc làm, về khuyến khích tăng gia, sản xuất, bảo vệ quyền lợi người lao động, chăm sóc thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ. Trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp, ngành LĐ-TB&XH đã tham mưu cho Nhà nước ban hành các chính sách phục vụ đắc lực cho cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện. Cùng với phong trào thi đua yêu nước, cả nước đã huy động trên 1,1 triệu người và hàng trăm triệu ngày công lao động phục vụ các chiến dịch, mà đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử. Trong thời kỳ hoà bình, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc (từ năm 1954- 1965), ngành đã kịp thời tham mưu với Đảng và Chính phủ ban hành hệ thống chính sách lao động, việc làm, phục vụ công cuộc khôi phục và kiến thiết đất nước. Trên lĩnh vực thương binh - liệt sĩ, thời kỳ này hàng loạt chính sách được sửa đổi, bổ sung như chế độ phụ cấp thương tật 6 hạng thay thế cho chế độ lương hưu tính theo tỷ lệ; điều lệ ưu đãi thương binh, bệnh binh, dân quân du kích, thanh niên xung phong, điều lệ ưu đãi gia đình liệt sĩ, chế độ tiền tuất cho liệt sĩ… Thời kỳ từ năm 1965 – 1975, cả nước thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược, đó là tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất đất nước, công tác thương binh, liệt sĩ được Đảng xác định là một vấn đề chính trị, xã hội lớn của nước ta. Hàng loạt các chính sách thương binh, xã hội được sửa đổi, bổ sung. Phong trào toàn dân chăm sóc thương binh, gia đình liệt sĩ được nhân rộng với các hoạt động cụ thể thiết thực. Thời kỳ đất nước thống nhất, cả nước tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội (từ 1975), lĩnh vực LĐ-TB& XH đã có bước phát triển vượt bậc. Ngành Lao động tập trung giải quyết, sắp xếp việc làm cho người lao động thất nghiệp ở các đô thị miền Nam, giúp nhiều người dân chuyển về quê cũ làm ăn, ổn định việc làm, đời sống cho số cán bộ tập kết từ miền Bắc trở về; sắp xếp việc làm cho bộ đội, thanh niên xung phong xuất ngũ; động viên lực lượng lao động cả nước tham gia khôi phục cơ sở hạ tầng, đặc biệt là hệ thống đường sắt thống nhất Bắc Nam, xây dựng công trình thuỷ lợi Hoà Bình, Trị An, nhiệt điện Phả Lại, xi măng Hoàng Thạch, Bỉm Sơn, thủy lợi Dầu Tiếng; phân bổ, điều động lao động và dân cư đi khai hoang và xây dựng các vùng kinh tế mới… Vào đầu những năm 80, chủ trương đưa lao động Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài được triển khai mạnh mẽ. Chủ trương đúng đắn này đáp ứng một phần yêu cầu lao động của các nước anh em, giải quyết việc làm cho một bộ phận thanh niên, đồng thời đào tạo được đội ngũ lao động trên 20 vạn người có tay nghề, có việc làm, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước sau này. Trên lĩnh vực TB, XH, ngay sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, thực hiện Chỉ thị của Đảng, ngành đã tập trung thực hiện những nhiệm vụ của công tác xác nhận thương binh, liệt sĩ; thống nhất chính sách, chế độ giữa hai miền; thực hiện cất bốc, quy tập hài cốt liệt sĩ, xây dựng nghĩa trang, đài tưởng niệm, bia ghi ơn liệt sĩ…

Tặng quà cho các gia đình chính sách nhân dịp Tết đến, Xuân về. Ảnh: NGÂN HOA

Trong thời kỳ đổi mới (từ năm 1986 đến nay), lĩnh vực LĐ-TB&XH đạt được những thành tựu quan trọng và cơ bản, đó là xây dựng hệ thống pháp luật để tăng cường quản lý nhà nước, phát triển các hoạt động sự nghiệp và mở rộng hợp tác quốc tế. Hàng loạt chế định về giải quyết việc làm, dạy nghề, xuất khẩu lao động, phát triển nguồn nhân lực, thương binh - liệt sĩ và người có công, cải cách chính sách tiền lương, đổi mới chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hộ lao động, thanh tra lao động, xoá đói giảm nghèo, cứu trợ xã hội, chăm sóc và bảo vệ trẻ em… được ban hành và đưa vào cuộc sống, góp phần thúc đẩy công cuộc cải cách và đổi mới của đất nước. Một trong những nét rất đặc trưng khác của lĩnh vực LĐ-TB&XH là các phong trào quần chúng được xây dựng và phát triển. Đó là các phong trào nghĩa tình chăm sóc thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ, người có công; phong trào xoá đói giảm nghèo, cứu trợ đồng bào bị thiên tai, trợ giúp người già neo đơn, người bị nhiễm chất độc hoá học. Các phong trào trên đã hình thành nét đẹp và trở thành “điểm sáng” trong công cuộc đổi mới. Cùng với cả nước, hoạt động của ngành LĐ-TB&XH Quảng Trị gắn liền với quá trình lịch sử đấu tranh cách mạng, xây dựng và phát triển của tỉnh nhà. Bắt đầu từ ngày hoà bình được lập lại (năm 1954) ở Vĩnh Linh, cán bộ Phòng Lao động và Phòng Cứu trợ xã hội kịp thời tham mưu cho chính quyền vùng đặc khu các chính sách lao động - việc làm, chính sách đối với thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ, góp phần vào việc huy động và sử dụng có hiệu quả nguồn lao động để vừa phục vụ đẩy mạnh sản xuất, xây dựng hợp tác xã nhằm ổn định đời sống cho nhân dân, vừa phục vụ các đơn vị chủ lực chiến đấu tại địa phương. Ở miền Nam, các địa phương, nhân dân các vùng cùng với các đơn vị quân đội địa phương, các đội quân chủ lực cố gắng giải quyết những vấn đề cấp bách như chôn cất, giữ gìn hài cốt, bảo quản phần mộ liệt sĩ, cấp cứu, tải thương vượt sông Bến Hải để đưa ra miền Bắc điều trị nuôi dưỡng. Đã có nhiều tấm gương hy sinh cao cả của cán bộ, nhân dân trong việc nuôi dấu, bảo vệ thương binh, giữ gìn phần mộ liệt sĩ... Sau ngày đất nước thống nhất, từ lúc hợp tỉnh Bình -Trị -Thiên cho đến lúc hợp nhất hai ngành năm 1988 (ngành Lao động và Thương binh- Xã hội), và tách tỉnh năm 1989, ngành LĐ-TB&XH đã bám sát chủ trương đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước và yêu cầu của đời sống xã hội, cùng nhau đoàn kết vượt qua khó khăn để xây dựng ngành từng bước lớn mạnh, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Trên lĩnh vực giải quyết việc làm, từ 1989 đến nay, ngành LĐ-TB&XH phối hợp tạo việc làm mới ở trong nước cho trên 93.700 lao động. Kết quả công tác giải quyết việc làm góp phần làm giảm tỷ lệ lao động ở khu vực thành thị từ 7,5% năm 1995 xuống còn 4,05% năm 2010. Cơ cấu lao động chuyển dịch tích cực, năm 2010, công nghiệp - xây dựng đạt 14,25%; thương mại - dịch vụ đạt 27%; nông, lâm, ngư nghiệp giảm còn 58,25%. Về công tác xuất khẩu lao động, ngành LĐ-TB&XH tích cực thực hiện công tác tuyên truyền, vận động, hướng dẫn thủ tục và tạo điều kiện thuận lợi để nhân dân tham gia. Đến nay đã đưa trên 2.580 lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài, mỗi năm số lao động này gửi về cho gia đình hàng chục tỷ đồng, góp phần quan trọng vào việc giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo và làm giàu cho quê hương. Đối với công tác dạy nghề, ngành đã tham mưu cho Thường vụ Tỉnh uỷ, UBND tỉnh ban hành nhiều chương trình, đề án lớn có tính chiến lược. Nhờ đó, quy mô và cơ cấu ngành nghề đào tạo được mở rộng, chất lượng dạy nghề từng bước được nâng cao gắn với yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế và thị trường lao động. Từ năm 1998 đến nay đã đào tạo được 46.808 người, trong đó đào tạo hệ dài hạn được 4.697 người. Quy mô đào tạo tăng từ 1.144 người năm 1999 lên 6.865 người năm 2009 ; tỷ lệ lao động qua đào tạo liên tục tăng từ 7,9% năm 1998 lên 30% năm 2009, trong đó qua đào tạo nghề đạt 21,67%. Đối với công tác thương binh, liệt sĩ và người có công, toàn tỉnh đã xác nhận và giải quyết các chế độ trợ cấp cho 77.874 đối tượng chính sách mới, bao gồm thương binh, bệnh binh, liệt sĩ, người có công giúp đỡ cách mạng, người hoạt động kháng chiến bị bắt, bị tù, bị nhiễm chất độc hoá học… Trong công tác xác nhận và giải quyết chính sách, ngành LĐ-TB&XH tỉnh Quảng Trị được Bộ LĐ-TB&XH đánh giá cao và chọn là đơn vị điển hình để toàn quốc tham khảo học tập trong công tác giải quyết chính sách tồn đọng. Phát động phong trào “Đền ơn đáp nghĩa”, trong 21 năm qua, ngành đã huy động trên 60 tỷ đồng vào quỹ «Đền ơn đáp nghĩa», xây dựng mới trên 2.808 căn nhà tình nghĩa, tổng trị giá trên 44,7 tỷ đồng; hỗ trợ trên 7,5 tỷ đồng sửa chữa 1.547 căn nhà tình nghĩa; tặng 5.648 cuốn sổ tiết kiệm tình nghĩa, trị giá trên 1,550 tỷ đồng. 100% các Bà mẹ VNAH còn sống đều được phụng dưỡng. Trên lĩnh vực công tác xoá đói giảm nghèo, là cơ quan thường trực của Ban Chỉ đạo Chương trình mục tiêu giảm nghèo, ngành LĐ-TB&XH nghiên cứu xây dựng kế hoạch hàng năm, 5 năm về giảm nghèo và chủ trì triển khai thực hiện đồng bộ các chính sách của Đảng, Nhà nước về giảm nghèo, góp phần giảm tỷ lệ hộ nghèo bình quân mỗi năm 2,9%. Các chính sách, giải pháp giảm nghèo được triển khai thực hiện và đi vào cuộc sống của người dân đến tận cơ sở, từng hộ gia đình, hạn chế đói nghèo, mở ra cơ hội cho hàng ngàn người nghèo có vốn sản xuất, có việc làm để tăng thu nhập, được chăm sóc sức khoẻ, con em có điều kiện học hành… Kết quả này cải thiện đáng kể đời sống vật chất cũng như tinh thần của nhân dân, góp phần vào sự nghiệp phát triển kinh tế- xã hội của địa phương. Công tác cứu trợ cho nhân dân bị thiên tai, bão lụt, hạn hán hay cứu trợ đột xuất cho các gia đình gặp tai nạn, rủi ro trên địa bàn đều được thực hiện đầy đủ, chu đáo, bảo đảm không để nhân dân thiếu đói đứt bữa. Hàng năm, ngành LĐ- TB&XH tham mưu cho các cấp chính quyền huy động nguồn lực tại chỗ để cứu trợ kịp thời cho nhân dân. Công tác trợ giúp người tàn tật, người bị nhiễm chất độc da cam, công tác chăm sóc bảo vệ trẻ em… được quan tâm và đạt được nhiều kết quả. Các chính sách, chế độ của nhà nước đối với các đối tượng được giải quyết kịp thời. Tháng hành động vì trẻ em hàng năm được sự tham gia hưởng ứng nhiệt tình của các tổ chức, doanh nghiệp và nhân dân; hoạt động truyền thông, giáo dục, tư vấn về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em được đẩy mạnh. Công tác phòng chống tệ nạn xã hội được phối hợp chặt chẽ, mang lại hiệu quả cao. Cùng với tăng cường quản lý nhà nước đối với lĩnh vực LĐ-TB&XH, các hoạt động sự nghiệp về LĐ-TB&XH phát triển mạnh mẽ, trở thành “chiếc cầu nối” giữa chính sách của Đảng, Nhà nước với nhân dân và các đối tượng thụ hưởng chính sách . Ngành LĐ-TB& XH nói chung, của tỉnh Quảng Trị nói riêng đã trải qua một chặng đường phát triển đầy khó khăn, thử thách nhưng cũng hết sức vẻ vang. Những thành tích của ngành được ghi nhận bằng những danh hiệu cao quý mà Đảng, Nhà nước trao tặng. Kỷ niệm ngày thành lập ngành là một dịp quý báu để mỗi một cán bộ công chức, viên chức trong toàn ngành cùng nhau ôn lại truyền thống, dành những tình cảm sâu nặng đối với sự nghiệp LĐ-TB&XH. Tiếp nối tuyền thống 65 năm đầy vinh quang, kiêu hãnh, mỗi một cán bộ, công chức, viên chức trong ngành không ngừng rèn luyện phấn đấu, tăng cường đoàn kết, vượt qua mọi khó khăn thách thức, nâng cao năng lực, trí tuệ và ý thức trách nhiệm phục vụ để làm tốt chức năng nhiệm vụ của mình, tiếp tục xây dựng và phát triển ngành ngày càng vững mạnh toàn diện, xứng đáng với niềm tin yêu của Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó. Nhân dịp kỷ niệm 65 năm ngày thành lập ngành LĐ-TB&XH, thay mặt lãnh đạo Sở LĐ-TB&XH, tôi xin gửi đến tất cả các đồng chí đã từng công tác trong ngành qua các thời kỳ lời chúc sức khoẻ và lời cảm ơn chân thành, sâu sắc nhất.