Mệ tôi, người anh hùng bình dị
(QT) - Mệ nội tôi tên là Trần Thị Bợ, sinh năm 1917 ở xã Vĩnh Quang (nay là thị trấn Cửa Tùng), Vĩnh Linh, Quảng Trị. Ông mệ có 8 người con. Trong thời kỳ đất nước có chiến tranh, ông nội, bác, ba và o của tôi tham gia vào cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Vào những năm 1959-1963 ông nội tôi vừa là một trong những ngư dân đánh cá rất giỏi vừa là dân quân du kích vận chuyển vũ khí, lương thực, thực phẩm tiếp tế cho đảo Cồn Cỏ, hòn đảo tiền tiêu của miền Bắc XHCN. Mệ nội ở nhà nuôi dạy con cái, lo chuẩn bị cơm nước cho ông ra khơi. Khi ông đánh bắt được mớ cá, mớ tôm, mệ lại đem ra chợ bán có thêm tiền phụ vào kinh tế gia đình.
.jpg) |
Mẹ Việt Nam anh hùng Trần Thị Bợ |
Năm 1965, bác tôi là Phan Văn Đoái khi đó vừa tròn 23 tuổi đã tham gia lực lượng dân quân của xã với nhiệm vụ trực tiếp chiến đấu, vận chuyển vũ khí ra đảo Cồn Cỏ. Vào một ngày tháng 5/1965, bác tôi về nói với mệ rằng: “Mạ ơi! Giống như ba mấy năm trước, đợt này con tình nguyện vận chuyển vũ khí, lương thực, thực phẩm ra đảo Cồn Cỏ”. Mệ ái ngại: “Con à, chuyến sau đi có được không, con sắp cưới vợ rồi mà!”. Bác tôi kiên định: “Cấp trên đã đồng ý rồi mạ à. Con đi chuyến này về cưới vợ cũng chưa muộn”. Nghe con nói vậy, mệ và ông tôi vui lòng để bác tôi đi, bởi ông mệ cũng hiểu rằng không thể ngăn được quyết tâm, ý chí xả thân vì quê hương, đất nước của những thanh niên Vĩnh Linh thời đó. Quê tôi là vùng biển, hơn ai hết ông mệ tôi tường tận sự gian nan, nguy hiểm của công việc đánh cá nơi đầu sóng, ngọn gió giữa biển khơi bao la. Giờ đây, khi ra khơi còn phải chiến đấu với kẻ thù được trang bị vũ khí tối tân với một bên là chiếc thuyền nhỏ bé vận chuyển vũ khí, lương thực tiếp tế cho đảo Cồn Cỏ. Ông, mệ và bác tôi đều hiểu những chuyến đi như vậy cực kỳ nguy hiểm, một mất một còn. Tối hôm đó, bác tôi lên thuyền với 7 đồng đội của mình. Mỗi người đều xác định có thể chuyến đi không có ngày trở về. Và không may, chuyến đi đó gặp phải sự bao vây của kẻ thù, bác tôi và một đồng đội nữa bị trúng đạn, rơi xuống biển. Năm đồng đội của bác bị giặc bắt kéo lên tàu đưa vào Nam và giam trong tù. Sau ngày Quảng Trị giải phóng năm 1972, rồi Hiệp định Pa-ri được ký kết vào năm 1973, hai bên trao trả tù binh, 5 đồng đội của bác được trở về từ nhà tù Mỹ-ngụy. Ông mệ và bố tôi nghe tin bác còn sống ở đâu đó trong các trại thương binh nên rất hy vọng. Bố tôi lúc đó đang là giáo viên ở Trường lái xe Quân đoàn 2, xin phép đơn vị đi tìm bác ở các trại thương binh từ Quảng Bình, Hà Tĩnh mà không thấy bác ở đâu. Cả gia đình rất đau đớn vì niềm hy vọng tìm thấy bác còn sống đã không còn, bác đã hy sinh. Đến tận bây giờ mỗi khi nhớ lại chuyện bác tôi ra đi, nước mắt mệ tôi lại tuôn chảy vì thương nhớ đứa con đầu lòng của mình hy sinh khi tuổi đời còn trẻ và không tìm thấy hài cốt, thân xác bác tôi đã hòa vào biển khơi bao la, một tấm ảnh để thờ cũng không có…
.jpg) |
Cung Văn hóa Thể thao thanh niên TP Hà Nội nhận phụng dưỡng suốt đời cho Mẹ Việt Nam anh hùng Trần Thị Bợ |
Mệ tôi kể rằng, ngày bác tôi lên thuyền ra đảo, bác cười rất tươi với niềm tin chuyến đi này chắc chắn thắng lợi trở về để chuẩn bị cho ngày cưới cận kề. Trong suy nghĩ của mệ, bác tôi mãi là một người giỏi giang: “Bác đẹp trai, làm chi cũng được, còn biết làm thơ nữa con nờ!”. Sau khi bác mất, đồng đội có đưa về cho ông mệ tôi một ba lô đựng vật dụng sinh hoạt của bác và lá thư cảm tử ký tên bằng máu. Nội dung lá thư mệ không nhớ rõ chỉ mang máng ghi lại quyết tâm của tuổi trẻ chiến đấu cho đất nước hòa bình, thống nhất, dù có hy sinh cũng cam lòng. Sau đó, lá thư được đọc trên Đài Truyền thanh Vĩnh Linh rất nhiều lần và còn được đọc ở Đài Tiếng nói Việt Nam. Hoàn cảnh chiến tranh cùng với thời gian đã lùi xa, lá thư của bác nay không còn nữa. Gia đình tôi rất mong muốn tìm được lá thư cảm tử đó và coi như đó là một kỷ vật thiêng liêng của bác. Năm 1966, gạt nỗi đau mất đứa con trai đầu, là một người không biết chữ, nhưng mệ tôi rất hiểu rõ rằng “Thà mất con, còn hơn mất nước”, khát vọng tự do, khát vọng hòa bình, thống nhất đất nước luôn là điều thiêng liêng cao quý nhất lúc bấy giờ, mệ tôi cho ba tôi (con thứ 2) đi bộ đội thuộc Quân đoàn 2, tham gia chiến đấu ở chiến trường B. Năm 1968, lại một lần nữa mệ tôi thót tim khi nghe tin ba tôi bị thương khi đang chiến đấu. Sau ngày đất nước thống nhất, ba tôi phục viên trở về quê hương mang theo bao niềm vui, niềm hân hoan và hy vọng của mệ tôi. Em kế của ba tôi là o Phan Thị Liệu, sinh năm 1952. Nghe mệ tôi kể lại o là dân biển nhưng nước da trắng, mái tóc rất dài và đen, lại rất siêng năng cần cù, là niềm mơ ước của nhiều chàng trai thời đó. Khi vừa tròn 20 tuổi o tôi đã có người hứa hẹn kết duyên là chú bộ đội tên Đặng quê ở huyện Hải Lăng. Thời đó o vừa lao động vừa tham gia vào lực lượng dân quân tập trung của xã. Năm 1972 khi đang chiến đấu thì o bị trúng bom, thân xác không còn nguyên vẹn, chỉ có mái tóc dài vắt trên ngọn cây cách rất xa là còn đó. Mệ tôi lúc đó tan nát cả cõi lòng, ngất lên ngất xuống, và sau đó bị chứng mất ngủ một thời gian dài vì hình ảnh đứa con gái yêu thương bằng da bằng thịt nay không còn mà chỉ hiện ra trước mắt một hố bom và mái tóc dài… Nỗi đau lại chồng lên nỗi đau, lòng người mẹ lại quặn thắt khi nghĩ về con, người con gái yêu thương hy sinh khi tuổi mới 20 và đã hứa hẹn hạnh phúc lứa đôi… Trải qua bao biến cố của cuộc đời, chứng kiến bao đau thương khi chiến tranh đã cướp đi hai người con yêu quý, ông nội mất vào năm 2002 do bệnh tật, vượt qua bao nỗi mất mát, mệ tôi là minh chứng cho sự hy sinh cao cả của người phụ nữ Việt Nam. Hiện mệ tôi đã 98 tuổi, đã có 25 đứa chắt nội, ngoại. Đối với chúng tôi điều quý giá, tự hào và vui mừng nhất là mệ vẫn còn khỏe và rất minh mẫn, vẫn tự chăm sóc bản thân, sống giản dị, nhân hậu một lòng vì con cháu, vẫn luôn tay làm việc nhà, rất thích ăn bánh sô cô la và thích mặc áo quần đẹp để đi… đám cưới. Thi thoảng, mệ lại tự mình đi chợ để mua những thứ mình thích. Nụ cười hiền hậu, khuôn mặt nhăn nheo, cái mũi đã sập hoàn toàn với hàm răng rụng gần hết của mệ luôn là hình ảnh thương mến, đẹp, bình dị và xúc động vô ngần. Cuộc sống hiện nay của mệ tôi đã nhận được nhiều sự quan tâm của nhà nước, xã hội, bà con xóm giềng. Mệ đã được phong tặng danh hiệu vinh dự nhà nước: “Mẹ Việt Nam anh hùng”. Tuổi đã cao, sức đã yếu, mệ chỉ luôn mong ước, nhắc nhở con, cháu, chắt phải biết siêng năng, cần cù trong lao động, sống hòa thuận, đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau khi gặp khó khăn, hoạn nạn. Chúng tôi rất xúc động mỗi khi thấy mệ cười hiền hậu, toát lên sự mãn nguyện khi thấy con cháu vui vẻ, sum vầy, yêu thương nhau. Chúng tôi luôn cầu chúc mệ sống lâu, sống khỏe, sống vui để bù đắp phần nào nỗi đau đớn, thiệt thòi trong chiến tranh mà mệ đã trải qua. Bài, ảnh: PHAN THỊ THỦY