(QT) - Tin nhà văn Nhất Lâm ký Di chúc hiến xác cho ngành y học làm cho anh em văn nghệ sĩ Huế xôn xao, xúc động. Tôi biết trong cả nước đã có hàng ngàn người đến các Trường Đại học Y xin được hiến xác cho y học. Ví dụ mới đây, 40 thi hài người hiến xác đã được thầy trò Trường ĐH Y Dược thành phố Hồ Chí Minh tiễn về hỏa táng tại tỉnh Bình Dương. Từ nay họ chính thức an nghỉ sau hơn 2 năm phục vụ công tác nghiên cứu giảng dạy. Hàng năm, cứ đến ngày 18/1 là Trường ĐH Y Dược thành phố Hồ Chí Minh lại tổ chức lễ tri ân những người đã hiến xác cho y học. Buổi lễ diễn ra giản dị nhưng cảm động. Hiện tại, trường đang lưu giữ 158 thi thể của những người hiến xác phục vụ cho sinh viên học tập, nghiên cứu khoa học. Hay chuyện ông Trần Đức (SN 1937) và bà Nguyễn Thị Khôi (SN 1961) trú ở xóm Hồng Lĩnh, xã Nhân Thành, huyện Yên Thành, Nghệ An cùng ký đơn hiến xác cho y học. Ông Đức đi bộ đội 17 năm liền, tỉ lệ thương tật 61%, thương binh hạng 4/4. Ông bị vợ bỏ nên khi nằm bệnh viện không ai chăm sóc. Thương ông, bà Khôi, một bệnh nhân cùng phòng đã tự nguyện ở lại chăm nuôi ông, rồi thành vợ chồng. Tháng 3/2011, vợ chồng ông bà viết đơn cùng ký tên, gửi cho trường Đại học y khoa Vinh xin hiến xác cho y học: “ Đây là tâm nguyện lớn nhất của vợ chồng chúng tôi, mong được góp một phần nhỏ cho ngành y tỉnh nhà. Cũng là tấm lòng tri ân của gia đình chúng tôi đối với xã hội ...”. Có thể kể nhiều chuyện hiến xác cảm động như thế. Nhưng một nhà văn hiến xác cho y học thì ở nước ta chưa có bao giờ. Có lẽ cho đến nay, nhà văn Nhất Lâm là người đầu tiên. Tôi tìm đến phòng viết của anh ở 26, Lê Lợi, Huế, hỏi cho rõ sự tình. Nhà văn Nhất Lâm cười vui vẻ trả lời: - Ối trời, hiến xác cho y học lâu nay là chuyện bình thường. Ai cũng một lần chết. Chết là hết. Tôi quan niệm thế. Người thì địa táng (chôn), người thì thiên táng (treo lên cây, bỏ lên đỉnh núi cao...), người thì thủy táng (thả trôi dưới biển)... Tôi chọn hiến xác cho ngành y, cũng là một cách táng. Nhưng đó là cách táng có lợi hơn cho cuộc sống sau khi mình đã chết vì để cho các nhà khoa học, các sinh viên nghiên cứu, giảng dạy, thực tập y học vài năm, để họ phục vụ tốt hơn cho sự sống của con người. Lại đỡ tốn đất để chôn, đỡ ô nhiễm môi trường...Tôi nghĩ chết như thế có ích cho đời hơn. Hơn 15 năm trước tôi đã đến Trường Đại học Y Huế đề nghị được hiến xác. Ông hiệu trưởng lúc đó tên là Phận, rất hoan nghênh, nhưng ông bảo: “Bây giờ anh mới 60, còn sung sức lắm. Khi nào đến tuổi 75 thì ta cùng bàn chuyện đó. Bây giờ tôi đã 77 tuổi rồi...”. Nói rồi nhà văn Nhất Lâm cho tôi xem bản Di chúc hiến xác mà nhà văn đã ký với Bộ môn giải phẫu, Trường Đại học Y Dược Huế. Hóa ra đây là chuyện thực đã diễn ra. Bản di chúc được chị Thủy, vợ nhà văn đồng ý ký tên, UBND phường Phú Thuận, Huế xác nhận, cùng Bộ môn giải phẫu đại học Y Dược Huế đóng dấu đỏ chót. Bản di chúc làm thành 3 bản: Trường giữ một bản, nhà văn giữ một bản và gia đình giữ một bản. Nội dung bản Di chúc rất ngắn gọn: “ Tôi tên là Đoàn Việt Lâm , bút danh Nhất Lâm...Tôi xin tự nguyện hiến thân xác mình cho sự nghiệp nghiên cứu y học. Sau khi tôi qua đời, đề nghị chuyển tôi đến Bộ môn giải phẫu học, Trường Đại học Y Dược Huế, 06, Ngô Quyền, thành phố Huế. Số điện thoại... để phục vụ giảng dạy và nghiên cứu y học. Nếu vào ngày nghỉ lễ, chủ nhật hoặc ngoài giờ làm việc thì xin liên hệ số điện thoại...Sau khi nhà trường đã hoàn thành việc giảng dạy và nghiên cứu, phần “tro - cốt” của tôi xin đề nghị: - Được đặt ở nơi an táng chung...; - Được trả lại cho gia đình theo địa chỉ...”. Nhà văn Nhất Lâm sinh năm 1937 ở làng An Tiêm, Triệu Thành, Triệu Phong, Quảng Trị. Anh là hội viên Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế, Hội viên Hội Nhà báo Việt Nam. Anh từng là bộ đội chống Pháp, rồi cán bộ địa chất đi tìm tài nguyên cho đất nước khắp vùng Tây Bắc, Đông Bắc, rồi cán bộ ngành giao thông, nguyên là Chánh thanh tra Sở Giao thông vận tải Bình Trị Thiên (cũ). Do hoàn cảnh riêng, anh đã xin nghỉ hưu sớm, trả căn hộ cơ quan phân ở đường Trần Thúc Nhẫn về chung cư Đống Đa ở và bắt đầu viết văn, làm thơ. Từ tập thơ “Thức với mùa trăng”, tập thơ đầu tay in năm 1995 cho đến nay anh đã xuất bản 14 tập sách: “Tiếng khóc và lời ru” (thơ, 1997); “Vú đá” (thơ, 2004); “Tiếng mưa” (thơ, 2007); “Nhật thực” (thơ, 2008); “Kinh thành bỏ ngõ” (tập tuyện ngắn, 1999); “Trăng viễn du” (truyện ngắn, 2000); “Đồi không tên” (tiểu thuyết, 2002); 12 con giáp (truyện ký, 2006): “Đêm phù thủy” (tiểu thuyết, 2009); “Xa Hà Nội” (tiểu thuyết, 2011); “Suối tiên tắm” (tập truyện ngắn, 2012); “Kìa xa xa”... Côn Đảo ( ký, 2013). Hiện anh còn bản thảo 2 tiểu thuyết “Trở lại Sài Gòn”, “Khách sạn giữa rừng” và một tập thơ chưa in. Sức viết như thế thật đáng nể trọng. Tập thơ “Tiếng mưa”, tập truyện ngắn “Kinh thành bỏ ngõ”, tiểu thuyết “Đồi không tên”, “Xa Hà Nội” của Nhất Lâm là những tập sách gây ấn tượng mạnh đối với độc giả. Riêng tiểu thuuyết “Xa Hà Nội” đã được tặng thưởng văn học của Quỹ Phùng Quán năm 2011. Điểm qua như thế để thấy Nhất Lâm là nhà văn sống hết mình và viết hết mình. Nhất Lâm có nhiều câu thơ khắc tạc vào lòng người đọc: “ Dấu chân đi qua đời ta/Để lại khoảng trắng/mẹ già...( Dấu chân); “ Ly dày ly cạn đêm nhòa nhạt/Áo mới em choàng nhuốm bâng khuâng ...” (Suối đêm); “ Giang hồ tôi uống bao quán vắng/Nước mắt nhòe mưa về bến sông ” (Mưa); “ Bánh chưng Nhật Lệ vuông Thành nội/Áo tím em về khép gió bay ...” ( Tết Huế). Đó là những câu thơ gan ruột mà anh gọi là “gom tuổi lang thang”. Nhà văn Nhất Lâm sống như viết, thẳng thắn, cương trực, đầy trực cảm và say mê. Mở cửa sổ tầng ba căn hộ chung cư sau đêm viết khuya, gặp ánh trăng man mác, thế là anh không dừng được đam mê, xách xe đạp xuống ba tầng cầu thang khu cư xá Đống Đa, một mình đạp xe đi chơi trăng đến sáng! Anh đạp xe lang thang như một kẻ mộng du. Đến khi chạm cầu, chạm biển Thuận An mới tỉnh ra, biết mình đang ở xa nhà hơn chục cây số. Bạn chơi của anh là những nhà thơ trẻ ở Huế như Hải Trung, Phạm Nguyên Tường, Lê Tấn Quỳnh, Đông Hà...77 tuổi rồi vẫn lang thang tìm bạn. Năm 2010 anh bị đau tim nặng, suýt chết. Bảy đường máu vào tim đều bị tắc. Bệnh viện bảo mổ, nhưng anh đã tự uống thuốc Bắc, thuốc Tây. Bây giờ cũng đã đỡ đôi phần. Anh sống nghèo, không vi tính, tiểu thuyết viết bằng tay, điện thoại di động bạn mới cho. Năm ngoái anh mua được cái xe đạp điện 12 triệu đồng. Thế là tuần nào cũng vù ra Đông Hà, Thành Cổ, Quảng Trị. Có được vài trăm ngàn đồng là mua vé xe lang thang vô Đà Lạt, Bình Định, Bình Thuận, Sài Gòn... để “chơi với bạn bè”. Anh đam mê từng ngày rong chơi, từng trang viết như vậy, nhưng anh lại yêu cuộc sống theo cách của mình: Yêu cuộc sống có nghĩa là ngay cả sau khi chết mình vẫn hiến mình cho sự sống sinh sôi. Sau khi ký Di chúc hiến xác, anh có thư cho Bộ môn giải phẫu, Trường Đại học Y Dược Huế, đọc lên cảm động ứa nước mắt: “ Nguyện vọng của tôi là sau khi nhà trường hết nghiên cứu phục vụ cho giảng dạy, tro thiêu xác tôi xin nhà trường đen rải đầu sông Vĩnh Định, tại cầu An Tiêm, làng An Tiêm, xã Triệu Thành, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Lễ rải tro nếu có đại diện Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế thì càng tốt, cùng con cháu trong gia đình: Vợ chồng Hùng-Thủy cùng hai cháu nội Linh, Giao; vợ chồng Thịnh -Thảo và cháu ngoại Thiện Nhân. Như tôi đã viết: “Khi ta chết nắm tro về xứ sở/Rải xuống dòng Vĩnh Định trường miên/Mảnh đất sinh ta thành thi sĩ/ Con tạ ơn làng, làng hỡi An Tiêm ”, (Tập thơ Vú Đá, 2004)”. Việc Nhất Lâm, nhà văn đầu tiên ký Di chúc hiến xác cho y học là việc làm có ý nghĩa xã hội lớn. Người đời thường nói: “Nhà văn, nghệ sĩ là người của cộng đồng”. Với nhà văn già Nhất Lâm, ý nghĩa “người của cộng đồng” ở đây trọn vẹn cả nghĩa bóng lẫn nghĩa đen. NGÔ MINH