Một ngày ở Ba Nang
(QT) - Với tôi, Ba Nang (Đakrông, Quảng Trị) không phải là vùng đất xa lạ. Trước đây khi chưa có đường giao thông nối từ đường Hồ Chí Minh vào trung tâm xã, chúng tôi đã từng đi bộ vượt hơn chục cây số bằng đường rừng để tới được Ba Nang, được ngủ lại với già làng ở bản Tà Mên, được uống thứ rượu thơm nồng mùi men lá ở bản A La và nghe giai điệu Cà lơi cha chấp của những đôi trai gái trong một tối hẹn hò. Trở lại Ba Nang vào những ngày này sau đợt mưa lũ kéo dài, chúng tôi lại cuốc bộ vì nhiều ...

Một ngày ở Ba Nang

(QT) - Với tôi, Ba Nang (Đakrông, Quảng Trị) không phải là vùng đất xa lạ. Trước đây khi chưa có đường giao thông nối từ đường Hồ Chí Minh vào trung tâm xã, chúng tôi đã từng đi bộ vượt hơn chục cây số bằng đường rừng để tới được Ba Nang, được ngủ lại với già làng ở bản Tà Mên, được uống thứ rượu thơm nồng mùi men lá ở bản A La và nghe giai điệu Cà lơi cha chấp của những đôi trai gái trong một tối hẹn hò. Trở lại Ba Nang vào những ngày này sau đợt mưa lũ kéo dài, chúng tôi lại cuốc bộ vì nhiều tuyến đường giao thông liên bản, liên xã của địa phương đã bị mưa lũ xé nát. Ba Nang là một trong những xã vùng sâu, vùng xa của huyện miền núi Đakrông. Trước đây, do điều kiện địa hình hiểm trở, giao thông đi lại, phức tạp nên cuộc sống của đồng bào Vân kiều, Pa kô ở Ba Nang khó khăn, lạc hậu. Trong những ngày mùa khô việc đi đến Ba Nang còn đỡ vất vả, mùa mưa đến Ba Nang như một ốc đảo giữa rừng già. Mấy năm trở lại đây nhờ có nhiều chương trình mục tiêu quốc gia xóa đói giảm nghèo, bằng việc quan tâm đầu tư xây dựng hạ tầng cơ sở, cải thiện và từng bước nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân, Ba Nang đã có nhiều khởi sắc. Với gần 420 hộ, 2.500 nhân khẩu chủ yếu là đồng bào Vân kiều, Ba Nang là vùng đất biên giới giáp với nước bạn Lào từng bị chiến tranh tàn phá nặng nề. Sau ngày đất nước thống nhất, đồng bào các dân tộc ở đây đã cùng nhau đoàn kết khắc phục khó khăn, bắt tay xây dựng cuộc sống mới. Được sự hỗ trợ từ các dự án và chương trình mục tiêu quốc gia, những năm qua Ba Nang đang từng bước hồi sinh từ trong nhọc nhằn, vất vả. Già làng Vỗ Suốt (bản Tà Mên), người đã từng tham gia phục vụ hai cuộc kháng chiến bảo vệ quê hương, đón chúng tôi trong ngôi nhà sàn khang trang vừa được xây dựng lại sau mấy vụ sắn, vụ lúa trúng mùa. Chỉ ra mấy thửa ruộng nước, cạnh đấy là con đập dâng để lấy nước tưới chủ động hai vụ lúa, già làng Vỗ Suốt nói rằng: “Nếu không có sự quan tâm của nhà nước thì chẳng biết bao giờ đồng bào mình có ruộng để sản xuất, có nước sạch để sinh hoạt . Đời sống của người dân không còn phải chịu cảnh thiếu đói triền miên như trước. Con em đến tuổi đều được đi học cái chữ, người đau ốm đều được đến trạm y tế để chữa bệnh... ” Từ chỗ là một xã vùng sâu, vùng xa, cuộc sống gần như cô lập với thế giới bên ngoài mỗi mùa mưa lũ, tình trạng thiếu đói diễn ra quanh năm, giờ đây Ba Nang đã có đường giao thông dẫn vào tận các thôn bản. Theo đó, người dân đã có điều kiện để giao lưu trao đổi với bên ngoài. Đặc biệt với hệ thống điện lưới quốc gia vượt qua hàng chục cây số đường rừng đã góp phần đưa ánh sáng văn minh về với bản làng, giúp đồng bào có điều kiện sử dụng các phương tiện nghe nhìn để nắm bắt thông tin kịp thời, nhất là các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước cũng như kinh nghiệm làm ăn của người dân các địa phương khác. Về đời sống văn hoá tinh thần, theo Chủ tịch UBND xã Ba Nang Hồ Văn Mỳ, từ chỗ phần đông người dân trong đó có trẻ em đều trong tình trạng mù chữ, thất học do đói nghèo và thiếu cơ sở trường lớp thì giờ đây 100% con em của địa phương trong độ tuổi được đến trường. Nhiều em đã được ưu tiên gửi đi các lớp học cao hơn ở trường dân tộc nội trú hoặc được gửi đi đào tạo chuyên môn nghiệp vụ để quay trở về phục vụ quê hương . Nét nổi bật ở Ba Nang là phong trào thi đua đẩy mạnh phát triển kinh tế gia đình xóa đói giảm nghèo trong đồng bào dân tộc Vân kiều, Pa kô. So với nhiều địa phương khác, đây là vùng đất có nhiều thế mạnh, ngoài quỹ đất dồi dào, nguồn nước tự nhiên phong phú, Ba Nang có một tiểu vùng khí hậu đặc trưng rất phù hợp với nhiều loại cây ăn quả, cây công nghiệp có giá trị. Những năm qua, nhờ được tiếp nhận kiến thức từ những đợt tập huấn thông qua các chương trình phát triển kinh tế, người dân Ba Nang đã biết thâm canh cây lúa nước, biết đào ao thả cá, biết trồng cây ăn quả, cây công nghiệp, đặc biệt là chương trình phát triển rừng thay thế nương rẫy. Trong số những người làm ăn giỏi ở Ba Nang phải kể đến những đảng viên đã vượt qua khó khăn, tiên phong gương mẫu trong công cuộc xoá đói giảm nghèo và vươn lên làm giàu mà đảng viên Hồ Mứt là một ví dụ sinh động. Từ lâu ông đã mạnh dạn vay vốn ngân hàng và tận dụng lợi thế nguồn nước từ khe suối để khai hoang ruộng nước, đào ao thả cá và chăn nuôi gia súc. Hồ Mứt cho rằng, chỉ có khai hoang đất bằng làm ruộng nước, nuôi cá mới chấm dứt tình trạng chặt phá rừng làm nương rẫy, là đảng viên ông không vận động bà con bằng những lời nói suông mà phải bằng việc làm cụ thể. Hiện tại gia đình ông có 1 ao cá rộng 5 sào, 1 mẫu ruộng nước, 2 ha cà phê, hồ tiêu và 2 ha chuối, mỗi năm thu nhập hàng chục triệu đồng. Từ nguồn thu này gia đình ông đã có cuộc sống ổn định, con cái ăn học đàng hoàng. Bây giờ ở Ba Nang tìm thêm những người như Hồ Mứt không khó, đó là Pả Do, Pả Diên, Vỗ Lớ, Hồ Văn Cam…, họ là những cựu chiến binh, những đoàn viên thanh niên, những cán bộ cơ sở đầy năng động đang từng ngày góp sức mình làm cho quê hương đổi mới, làng bản ấm no. Rời Ba Nang khi cơn mưa rừng đang chuẩn bị đổ xuống, người bạn đồng hành với tôi ở Phòng Nông nghiệp và PTNT huyện Đakrông có vẻ sốt ruột: “Không đi qua suối A La trước cơn mưa này thì có lẽ phải ở lại lâu đấy”. Chúng tôi vội vả trở về khi những ký ức về Ba Nang với những người bạn cũ như Chủ tịch xã Pả Bình, Bí thư Pả Hương cứ níu chân tôi mãi… HOÀNG ĐỨC